Three grades of thinking
Chúng ta vẫn thường xuyên nghe đi nghe lại luận đề “Con người là động vật biết tư duy”, rằng sự khác biệt giữa người và vật là ở chỗ con người có khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề, còn con vật thì không. Chúng ta đã nghe lập luận này quá nhiều lần đến nỗi chúng ta tin vào sự đúng đắng tuyệt đối của nó và chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện tìm hiểu xem liệu bản thân ta hay những người xung quanh có thật sự suy nghĩ hay không. William Golding, nhà văn người Anh đoạt giải thưởng Nobel văn chương năm 1983, lại không hoàn toàn tin như vậy.
Trong một bài luận viết năm 1961 có tựa đề “Tư duy là sở thích của tôi”, ông phân loại tư duy của con người thành 3 cấp độ. Những người thuộc cấp thấp nhất, cấp độ 3, là những người chẳng hề dùng đến đầu óc để tư duy và họ chiếm 90% dân số nước Anh (ta có thể mở rộng ra cho 90% dân số thế giới). Cái gọi là tư duy đối với 9/10 dân Anh chẳng qua chỉ là một tập hợp những “thành kiến trong vô thức, sự thiếu hiểu biết và thói đạo đức giả” (unconscious prejudice, ignorance and hypocrisy). Để minh họa, Golding đưa ra ví dụ về một ông thầy cấp 2 của mình, một người tự nhận là có nhiều tư duy và nhiều lần khẳng định hùng hồn trước đám học trò về một cuộc sống lành mạnh về thể chất và tinh thần, về đạo đức và nghĩa vụ. Ấy vậy mà bọn học trò ai cũng biết ông là kẻ bợm rượu và mỗi khi đang giảng bài nếu thoáng thấy có bóng dáng một chiếc váy đi ngang qua cửa số là ông quay đầu nhìn như muốn sái cả cổ. Một vài ví dụ khác Golding đưa ra để minh họa cho hành vi và lối tư duy của những người tư duy cấp 3: đám đông la hét mừng rỡ đón chào vua hay nữ hoàng Anh đi ngang qua để thể hiện lòng yêu nước của mình, một thủ tướng Anh ra quyết định bỏ tù Nehru và Gandhi rồi tuyên bố làm như vậy là có lợi cho dân Ấn, hay các chính trị gia Mỹ câu trước tuyên bố hùng hồn về hoà bình thế giới, câu sau lại từ chối gia nhập Liên hiệp các Quốc gia [League of Nations, tiền thân của Liện Hiệp Quốc hiện nay]. Theo Golding, “tư duy” ở mức độ này nghiêng về cảm giác hay cảm xúc (feeling) nhiều hơn là lý trí.
Ở cấp độ cao hơn một bậc, những người tư duy cấp 2 khám phá ra rằng xã hội loài người chứa đầy những mâu thuẫn và những điều trái ngược nhau. Những người lên được tư duy cấp 2 là những người đứng tách biệt, lùi mình khỏi đám đông. Họ mở to đôi mắt và giong đôi tai để quan sát, tiếp thu, và phân tích. Người tư duy cấp độ 2 có khả năng đạp đổ nhưng không xây dựng được một kiến trúc mới thay thế cho cái họ đã phá hủy. Họ có thể đứng bên ngoài chế diễu đám đông cuồng nhiệt đang bày tỏ lòng hâm mộ trước các siêu sao điện ảnh và ca nhạc, hay chế diễu sự mâu thuẫn trong hành vi của những con chiên ngoan đạo một mặt tuyên bố sẵn sàng chìa má còn lại cho người khác tát nhưng mặt khác sẵn sàng cầm gươm, giáo tham gia thánh chiến. Nhưng ngoài việc chế diễu, vạch trần, đạp đổ các quan điểm mang tính thành kiến, sai lầm và lạc hậu, tư duy cấp 2 không đưa ra được một giải pháp tích cực nào thay thế.
Vạch ra những điểm yếu kém của các thế hệ đi trước có thể làm thoả mãn cái “tôi” của những người tư duy cấp 2 nhưng không mang lại cho họ cảm giác yên ổn. Họ giống như những người bơi giỏi, có thể bơi ra xa bờ để lại những người khác ở đằng sau. Nhưng ở xa bờ, mực nước vượt quá đầu họ và ở đó họ chỉ có đơn độc một mình. Pontius Pilate của La Mã cổ đại là ví dụ điển hình cho tư duy cấp 2. Ông đã từng phát biểu, “Sự thật là gì? Nó chỉ là cái mà người ta dùng để chấm dứt tranh luận thay vì để khởi đầu sự tranh luận”. Khác với người tư duy ở cấp độ 2, sau khi đặt câu hỏi “Sự thật là gì?” người tư duy đẳng cấp 1 sẽ bắt tay đi tìm kiếm và đưa ra câu trả lời thích đáng.
Dĩ nhiên, những người người tư duy đẳng cấp 1 là cực kỳ hiếm. Golding đưa ra Einstein làm một ví dụ. Ví dụ khác ông đưa ra chính là … bản thân ông, Golding. Ông giải thích rằng khi đạt đến đỉnh cao tư duy cấp độ 1 “tất cả các hệ thống chính trị, tôn giáo, tập tục xã hội, trung thành với truyền thống, quốc gia đều bị giựt đổ cho té nhào, như những trái táo thối rơi khỏi cành.” Ở đẳng cấp này, Golding tự xây dựng cho mình một hệ thống đạo đức và cấu trúc xã hội rất chặt chẽ và hoàn toàn lôgic, trong đó ông “gạt bỏ một loạt những thứ vặt vãnh, vô bổ như chính phủ, các tập đoàn kinh doanh lớn, quân đội, hôn nhân ….” Dĩ nhiên, ông khám phá được rằng đa số loài người hài lòng với cuộc sống mà họ đang có và chẳng ai hồ hởi muốn tham gia xây dựng cái thế giới “hoàn hảo” do ông nghĩ ra.
~.~.~
Pascal có câu nói nổi tiếng, “Con người là cây sậy biết tư duy”. Vậy Pascal đúng hay Golding đúng? Con người có thật sự biết tư duy?
Thật ra, nếu đọc kỹ toàn bộ đoạn văn Pascal viết và hiểu đúng những gì Golding trình bày, ta sẽ nhận thấy quan điểm của Pascal và Golding không đối chọi nhau. Pascal viết,
“Con người chỉ là một cây sậy, một loại cây yếu ớt nhất trong thế giới tự nhiên, nhưng họ là một cây sậy biết suy nghĩ … Một hơi nước, một giọt nước cũng đủ để giết chết họ. Nhưng nếu có bị vũ trụ nghiền nát, thì sự hiện diện của con người vẫn còn cao thượng hơn thế lực đã giết chết họ, bởi vì con người ý thức được cái chết của mình và biết được ưu thế của vũ trụ, trong khi đó vũ trụ là vô tri, vô giác và không hề biết được điều này. Vì vậy tất cả sự tôn nghiêm của con người nằm ở chỗ họ biết tư duy. Chúng ta cần nâng cao vị trí của mình thông qua tư duy, chứ không thông qua chiều không gian và thời gian vì [chúng là vô hạn và] chúng ta không thể lấp đầy không gian và thời gian được. Vì vậy chúng ta hãy nỗ lực tư duy cho tốt [to think well]; đây chính là nguyên tắc của đạo đức.” (Penseés, VI: 347)
Pascal không kêu gọi con người “hãy tư duy đi”, vì nói vậy chẳng khác nào buộc tội họ là những sinh vật không biết tư duy. Golding cũng không nói rằng loài người không biết tư duy. Ngược lại, ông muốn chỉ ra cho thấy 90% loài người tin và chấp nhận một cách mù quáng những hành vi, tập tục, thể chế cổ hủ và tiêu cực trong xã hội. Pascal kêu gọi mọi người hãy “tư duy cho tốt” và xem đó là “nguyên tắc của đạo đức”, điều này cũng phù hợp với quan điểm của Golding khi ông đánh giá cao những cá nhân dám vươn mình bước lên trên đám đông, đạp đổ những “thành kiến, sự thiếu hiểu biết và thói đạo đức giả” và từ đó đề xướng ra những con đường đi mới.
~.~.~
Câu chuyện về ba ông thầy của tôi.
Câu chuyện thứ nhất: ông thầy khoa Nhân chủng học. Vừa về hưu năm ngoái vì đã 70 tuổi. Mấy câu cửa miệng ông thích trích dẫn: “People don’t think, they don’t want to think, because thinking is painful.” Và “We have culture to help us not to think”.
Câu chuyện thứ hai: ông thầy khoa Sử. Nhận xét về cuốn “Democracy in America” do một tác giả người Pháp, Tocqueville, viết vào giữa thế kỷ 19 sau khi đi vòng quanh nước Mỹ trong 9 tháng, một cuốn sách kinh điển về xã hội-văn hóa Mỹ mà cho đến nay sau hơn 150 năm vẫn chưa một tác giả Mỹ nào vượt qua được, ông nói: “Culture is something we don’t think about because we all take it for granted.” Rồi ông nói tiếp, đại khái một người nước ngoài từ một nền văn hóa khác sẽ dễ dàng nhận thấy những gì mà những người sống bên trong nền văn hóa không nhìn thấy. (Trong môt thoáng tích tắt, ông gieo vào đầu tôi ảo ưởng mình có thể trở thành một Tocqueville thứ hai :-).
Câu chuyện thứ ba: ông thầy gốc da đỏ dạy khoa Hoa Kỳ Học. Sau khi cho học trò xem xong một phim tài liệu mà bây giờ tôi không nhớ là về đề tài gì, ông chỉ bình luận một câu ngắn gọn, đại khái là: “It’s traditions that keep people from thinking.”
~.~.~
Cách đây 2 năm, có một anh giáo viên đại học ở Sài Gòn được học bổng qua chỗ tôi du học. Có một lần ngồi tán phét với nhau, hắn ta thú nhận từ nhỏ đến lớn ở VN hắn chưa bao giờ nghĩ rằng nữ giới thông minh như nam giới hoặc nữ giới có khả năng trí óc ngang bằng với nam giới. Chỉ khi đặt chân sang Mỹ du học hắn mới bắt đầu thay đổi quan niệm này. Tôi quên không hỏi điều gì đã gây ra sự thay đổi và lý do nào trong hơn hai mươi mấy năm trời hắn tin rằng phụ nữ là thua kém nam giới về khả năng trí tuệ và lãnh đạo. Tôi chỉ có thể suy đoán rằng đó là sản phẩm của một nền văn hóa Khổng giáo với những thành kiến phân biệt đối xử “trọng nam, khinh nữ” như “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “nam thượng nữ hạ”, hay “nữ nhân ngoại tộc”.
Văn hóa là những gì bao bọc, vây quanh ta hàng ngày. Chúng là một phần quen thuộc của cuộc sống đến nỗi ta chấp nhận và xem sự hiện diện của chúng là đương nhiên. Ít có ai bổng nhiên đi đặt câu hỏi: những điều bấy lâu nay ta vẫn làm có đúng không? có phải sinh con trai là tốt hơn sinh con gái? tại sao con trai lại tốt hơn con gái? Tôi đã thử vật lộn tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên dựa vào hiểu biết ít ỏi của mình về xã hội VN và cho rằng có 2 trường hợp có thể xảy ra. Trường hợp 1, người được hỏi những câu hỏi trên sẽ đưa ra những câu trả lời rất “củ chuối” đại loại như “vì xã hội/ông bà ta trước nay vẫn quan niệm vậy”, hay “sinh con trai để nối dõi tông đường” hoặc “vì con trai sẽ phụng dưỡng bố mẹ khi về già, còn con gái thì phải đi lấy chồng và chỉ biết lo cho chồng, con và gia đình chồng”. Đối với những người trả lời kiểu này này, nếu bị vặn hỏi tiếp, họ sẽ không thể giải thích được con gái và con trai khác nhau chỗ nào, vì sao con gái không thể nối dõi tông đường, và vì sao có những trường hợp con gái đi lấy chồng không thể quay lại chăm sóc cho cha mẹ mình. (Dĩ nhiên, con trai có bao giờ chăm sóc cho cha mẹ bao giờ, chúng lấy vợ và bắt vợ phải chăm sóc cho mẹ mình. Đó chẳng qua chỉ là một hình thức trao đổi “hàng hóa con người” trá hình: đổi con gái mình lấy con gái người khác về làm nô lệ trong nhà. Nếu không có con gái thì coi như lời to.)
Khá hơn một chút là những câu trả lời như “vì con trai dễ đạt được công danh sự nghiệp, mang lại vinh dự cho gia đình”, “vì con trai kiếm được nhiều tiền cho gia đình hơn con gái”, hoặc “vì con trai đóng góp được nhiều ích lợi cho xã hội hơn con gái”. Với những người này, việc giải thích để họ hiểu tại sao lại có những hiện tượng nam-giỏi-hơn-nữ sẽ mất khá nhiều thời gian. Họ cần phân biệt được sự khác biệt giữa nam và nữ do thiên nhiên tạo ra và sự khác biệt giữa nam và nữ do con người tạo ra.
Blog này có tên là no-mind là vì vậy. Đôi khi điểm xuất phát của một người thuộc dạng no-mind lại có nhiều ưu thế hơn những người chứa đựng quá nhiều nhận thức và thành kiến sai lầm trong đầu. Tháo gỡ những nhận thức và thành kiến sai lầm là một quá trình thật không đơn giản chút nào.
~.~.~
Phụ chú:
1. Trong bài viết của mình, Golding chỉ đề cập đến Einstein là người có tư duy ở đẳng cấp 1. Lẽ ra ông còn có thể kể tên ra một số nhân vật lịch sử khác ở châu Á như Khổng Tử, Phật Thích Ca, Gandhi, v.v. vì đây là những nhân vật đã để lại cho nhân loại một mô hình xã hội hoặc một triết lý sống gần như hoàn toàn tách rời khỏi những truyền thống đi trước và phần nào giải quyết được những vấn đề nhức nhối vào thời đó.
2. Nếu bạn đọc thấy trên blog này có quá nhiều ý kiến chê bai, chỉ trích nhưng lại thiếu ý kiến đóng góp, bạn phải hiểu rằng tôi đang mon men trèo các nấc thang để bước lên tầng 2 của toà nhà tư duy. Nói một cách khác, tôi chỉ có thể cố gắng đập phá cái chai để chui ra khỏi nó, nhưng chưa biết làm cách nào tạo ra được một cái chai khác to và đẹp hơn. “Đập phá” ở đây mang nghĩa bóng, ám chỉ đến sự thay đổi trong nhận thức về tư duy thông qua giáo dục, hy vọng nó sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi và tập tục xã hội. Tôi hoàn toàn ý thức được tác hại nguy hiểm của việc “đập phá cái cũ xây dựng cái mới” và hoàn toàn không chủ trương dùng bạo lực.
3. "Man can alter his life by altering his thinking" (William James). Vấn đề là bằng cách nào chúng ta có thể thay đổi được cách tư duy của mình? Ông bà ta đã có sẵn câu trả lời: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn.” [Câu này được dịch sang tiếng Anh nghe rất hay: Leave the village for a day and come back with a basketful of wisdom.] Nếu đi từ Huế vô Sài Gòn, ta sẽ học được nhiều điều mới mẻ và tư duy sẽ có vài chuyển biến, mặc dù vẫn còn trong phạm vi tư duy người Việt. Nếu đi từ Á qua Âu, chắc chắn sẽ có những thay đổi trong nếp tư duy, vượt qua cái khung văn hóa Việt. Ở đây tôi không hề có ý cổ suý cho việc bài các, chê bai, đạp đổ văn hóa Việt để trở thành một người châu Âu hay người Mỹ trăm phần trăm. Trong phần viết về “tư duy trong-cái-chai”, tôi đã nói rõ một thế giới hoàn hảo là thế giới kết hợp cả những cái hay của Á và Âu. Dĩ nhiên, câu hỏi cuối cùng là ta có làm được vậy không? Hay “Đông là Đông/Tây là Tây/Cả hai sẽ chẳng bao giờ gặp/hiểu được nhau”?
4. Vậy còn những người không có cơ hội đi đây đi đó? Họ cần đọc nhiều để phát triển óc tò mò và trí tưởng tượng của mình. Trí tưởng tượng càng phong phú, đầu óc càng ham học hỏi thì càng dễ tiếp nhận những kiến thức mới và mở rộng sự hiểu biết. [The man of prejudice is, a fortiori, a man of limited mental vision - Webster Dictionary.]
2 Comments:
A good read, anh Quan.
A good blog entry among many. :)
For a long time i havenot visited ur blog, partly bcoz u dont update it regularly.
i sense a big change: you sound less "bitter", less "extreme", more tolerant, bình thản hơn, vui vẻ hơn...:) Maybe not the exact words, but i hope u see what i mean. A good sign promising more interesting yet "calm" entries.
:)
HChuyên.
Post a Comment
<< Home