Moving in and out of bottles
Tôi không biết trong tiếng Việt khi muốn động viên một ai đó cần có suy nghĩ sáng tạo, không đi theo lối mòn, ta sẽ nói thế nào. Những cách nói thông thường như “phải động não đi chứ” hay “phải biết cách dùng đầu óc” không thể hiện được ý tôi muốn diễn đạt. Trong tiếng Anh có thành ngữ “think outside the box.” Lần đầu tiên nghe câu này tôi rất bị ấn tượng vì nó lập tức gợi lên trong đầu tôi hình ảnh một chiếc hộp nhỏ bé, ngột ngạt, giam hãm và cầm tù tư duy của con người.
Dĩ nhiên không phải chỉ có tôi mà một số đông dân Mỹ cũng có ấn tượng mạnh đối với cách diễn đạt này. Kết quả là sau một thời gian dài được quá nhiều người sử dụng, giờ đây thành ngữ trên đã mất tính độc đáo và trở thành một cụm từ khá sáo mòn. Hơn nữa, chẳng có mấy người Mỹ thật sự hiểu được thế nào gọi là “think outside the box.” [Trong tiếng Việt cũng có những hiện tượng tương tự. Chẳng hạn như khi nghe những câu như “Đầu tiên là tiền đâu” hay “Nhìn đời qua hai mảnh ve chai,” tôi đoán giờ chẳng có mấy người Việt

Như các bạn có thể thấy, nếu như trong khi cố gắng giải đáp bài toán, trong đầu của bạn chỉ có thể hình dung nối liền 9 chấm trong phạm vi đường biên giới hình vuông trên thì bạn phải cần ít nhất là 5 đường thẳng mới có thể giải được bài toán này. Để giải quyết được bài toán bạn cần bạn phải suy nghĩ thoát ra “bên ngoài cái hộp” hình vuông ấy. Chẳng hạn, bạn có thể nối liền 9 chấm theo hình sau:

Như vậy, bằng cách gạt bỏ đường biên giới hình vuông ra khỏi óc, bạn đã nới rộng phạm vi tư duy và phạm vi tự do hành động của mình. Giải pháp cho bài toán này cũng như nhiều bài toán khác trong cuộc đời, nó phụ thuộc vào việc bạn có thể xoá bỏ những rào chắn trong tư duy hay không.
Đó là cách người ta giải thích nguồn gốc thành ngữ “think outside the box.” Câu thành ngữ này được giới tư vấn kinh doanh và quản trị ở Mỹ sử dụng nhiều. Có lẽ vì lĩnh vực quản trị-kinh doanh là lĩnh vực quan trọng mang lại hàng triệu đôla lợi nhuận nên những người sử dụng nó có cơ hội xuất hiện nhiều trên truyền hình hay được trích dẫn nhiều trên báo chí. Cụm từ “think outside the box” do đó có cơ hội truyền bá đến số đông dân chúng.
Còn một cách diễn đạt và một khái niệm khác không kém phần hấp dẫn mà rất ít người biết và sử dụng. Lý do có thể là vì nó có nguồn gốc xuất phát từ triết học, mà như tất cả chúng ta đều biết, triết học không phải là môn học có giá trị thực tế. Như những ai đã từng tìm đến các giảng đường triết học để chữa chứng bệnh mất ngủ kinh niên của mình đều biết, nó không giải quyết những vấn đề thiết thực như cơm-áo-gạo-tiền của cuộc sống mà chỉ bàn đến những vấn đề cao siêu ít người quan tâm. Chính vì vậy, cách diễn đạt thứ hai mà tôi dùng làm đầu đầu đề cho bài viết này không được đưa vào trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày và không được nhiều người biết đến.
~.~.~
Wittgenstein là một triết gia Áo sống vào nửa đầu thế kỷ 20. Ông có nhiều đóng góp quan trọng vào nền triết học đương thời, trong đó bao gồm cả đóng góp vào lĩnh vực triết học ngôn ngữ (philosophy of language). Ông được xem là một trong những triết gia xuất sắc của thế kỷ và được tạp chí Time đưa vào trong số 100 danh nhân thế giới thế kỷ 20.
Thú thật, tôi không đủ trình độ - mà cũng không có tham vọng – để thấu hiểu toàn bộ hệ thống ý tưởng của ông. Nhưng trong quá trình đọc sách triết, thỉng thoảng tôi cũng chống chọi được với cơn buồn ngủ và ráng vày vò đầu óc để tìm hiểu xem các nhà triết học đang muốn truyền bá điều gì đến những độc giả có số IQ thấp như tôi. Nhờ vậy, tôi học được một ý tưởng ngộ nghĩnh Wittgenstein dùng để giải thích vai trò của triết gia và bản chất của các vấn đề triết học phức tạp. Theo Wittgenstein, lý do tại sao các triết gia bao đời nay vẫn loay hoay chưa giải quyết được các bài toán triết học đã có từ thời cổ đại là vì những câu hỏi triết học mà họ nêu ra có thể nói là vô nghĩa. Theo ông, thông qua ngôn ngữ, các triết gia nêu lên những vấn đề to tát như vật chất (matter), ý thức (mind), tự do ý thức (free will), cái thiện, cái ác, v.v. mà không ý thức được rằng ngôn ngữ là một phần gắn chặt của cuộc sống và không thể tách rời ngôn ngữ ra khỏi những bối cảnh cụ thể của cuộc sống mà không làm mất đi ý nghĩa của ngôn ngữ. Khi dùng ngôn ngữ để nêu lên các vấn đề mang tính triết lý, các nhà triết học đã tách rời ngôn ngữ ra khỏi môi trường tự nhiên của nó và đưa nó vào một môi trường triết lý siêu hình, trong đó tất cả những đặc tính quen thuộc và cần thiết của ngôn ngữ biến mất.
Wittgenstein ví việc đưa ngôn ngữ vào trong một môi trường triết lý siêu hình cũng giống như việc đi trên vùng đất băng trơn không có sự ma sát (frictionless ice). Lý do cần thiết để tạo ra một môi trường như vậy là vì các nhà triết học cần tạo ra những điều kiện hoàn hảo để qua đó họ có thể áp dụng một ngôn ngữ hoàn hảo về logic và triết học để giải quyết tất cả những vấn đề triết học mà không phải chịu bất cứ ảnh hưởng “ma sát” nào của những hoạt động sinh sống hàng ngày của con người. Dĩ nhiên, chính vì không có sự hiện diện của những “ma sát với cuộc sống” mà ngôn ngữ triết học trở thành vô dụng và không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Ông mô tả ngôn ngữ triết học như “những bánh xe không thể quay,” “ngôn ngữ đi nghỉ mát,” hoặc “một vật dụng chỉ dùng để trang trí” (“idle wheels,” “language that goes on holiday,” a mere “ornament”). Để giải quyết những vấn đề do ngôn ngữ triết học gây ra, theo ông, các triết gia cần rời bỏ vùng băng trơn không ma sát và quay lại vùng đất xù xì (rough ground) của ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày.
Nói cách khác, Wittgenstein muốn chứng minh cho thấy các triết gia đã sai lầm ngay từ ban đầu khi nêu lên các vấn đề phức tạp trong triết học bằng cách không sử dụng ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày. Thay vì hoài công đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi triết học, theo Wittgenstein ta chỉ cần ý thức rằng chúng là hệ quả của việc sử dụng ngôn ngữ không có độ ma sát và gạt bỏ ngôn ngữ này ra khỏi lĩnh vực triết học. Điều thú vị trong giải pháp ông đưa ra là một khi đã vứt bỏ “ngôn ngữ đi nghỉ mát” thì tất cả những vấn đề triết học về sự sống-cái chết, thượng đế-con người, vật chất-ý thức, v.v. cũng tự nhiên biến mất. Ông viết: “the clarity we are aiming at is indeed complete clarity. But this simply means that the philosophical problems should completely disappear.”
Các nhà triết học loay hoay tìm cách giải quyết những câu hỏi triết học muôn thuở được ông ví như những con ruồi bay loanh quanh trong một cái chai và không tìm thấy đường ra. Cái chai ở đây chính là hệ thống khép kín của những khái niệm triết học, dùng chính nó làm hệ quy chiếu (self-referential system of thought). Wittgenstein tự giao cho mình trách nhiệm chỉ đường cho chú ruồi thoát khỏi cái chai (“shew the fly the way out of the fly-bottle”). Dĩ nhiên, cách đơn giản nhất để thoát khỏi cái chai là đập bể nó.
Để bạn có thể thấy rõ tầm quan trọng của bối cảnh đối với việc sử dụng ngôn ngữ và sự vô ích của việc dùng ngôn ngữ để giải quyết những vấn đề do ngôn ngữ tạo ra, tôi thử lấy một ví dụ đơn giản trong cuộc sống như sau. Hai chữ “đi bơi” trong tiếng Việt có lẽ ai cũng hiểu nhưng không phải ai cũng hiểu giống nhau vì ý nghĩa của nó phụ thuộc vào bối cảnh cuộc sống của người sử dụng. Một đứa trẻ sống ở thành phố sẽ hiểu đó là đi đến hồ bơi Kỳ Hòa hay một hồ bơi nào đó, vô phòng thay đồ, cởi đồ tây, mặc đồ bơi, đeo kiếng bơi vào (nếu có), đi cất đồ, đi tắm vòi nước trước khi bơi, và sau đó nhảy xuống hồ. Một đứa trẻ sống ở một vùng nông thôn cạnh một con sông sẽ hiểu “đi bơi” đơn giản là chiều chiều cởi trần đi ra sông, nhảy xuống sông tắm. Chấm hết. Đối với một đứa trẻ sống ở thành phố cũng như đứa trẻ sống ở nông thôn, cả hai đều hiểu “đi bơi” là gì mà không cần phải có người giải thích dài dòng. Nhưng nếu có một nhà triết học rảnh rỗi muốn đưa ra một định nghĩa hoàn hảo để giúp bất cứ ai cũng có thể hiểu được đi bơi là gì mà không cần phải đề cập đến những chi tiết dung tục, tầm thường của cuộc sống hàng ngày như cởi quần, cởi áo, hay cởi trần thì bạn có thể hình dung được sự rối rắm, phức tạp không cần thiết của những ngôn ngữ, khái niệm chung chung, trừu tượng mà ông/bà ta phải dùng để giải quyết câu hỏi nêu trên. Mà cũng chưa chắc đã giải quyết được vấn đề cho trọn vẹn. Thay câu hỏi “đi bơi là gì?” bằng câu hỏi “hạnh phúc là gì?” thì bạn có thể tưởng tượng được mức độ rối rắm, phức tạp sẽ gia tăng lên bao nhiêu lần.
~.~.~
Bối cảnh cụ thể của cuộc sống do đó đóng một vai trò quyết định trong việc hiểu và sử dụng đúng ngôn ngữ. Ví dụ như ta chỉ có thể hiểu đúng khái niệm “đi học” trong tiếng Việt nếu dùng nền văn hóa và bối cảnh cuộc sống Việt Nam làm hệ quy chiếu. Khi dịch khái niệm “đi học” sang hệ quy chiếu của Mỹ thành “go to school” để người Mỹ hiểu, thì hơn 50% ý nghĩa của nó đã bị thay đổi. Khi dịch khái niệm “hiếu thảo” sang tiếng Anh thành “filial piety,” theo tôi đoán nó đã mất đi 90% ý nghĩa gốc trong tiếng Việt và hơn 90% dân Mỹ chỉ có một khái niệm lờ mờ “filial piety” có ý nghĩa gì trong tiếng Anh và bao hàm những hành động, bổn phận gì của người con đối với cha mẹ. Sự khác biệt giữa hai hệ quy chiếu càng lớn thì khả năng để các thành viên hai bên có thể hiểu nhau càng nhỏ. Wittgenstein cho rằng “Nếu một con sư tử biết nói [tiếng Anh hay bất thứ tiếng nào khác], thì ta cũng không thể nào hiểu được ý nó muốn nói gì,” vì hệ quy chiếu của người và vật quá khác nhau.
Ngôn ngữ và văn hóa của một nước do đó cũng là một hệ thống tư duy khép kín dùng chính nó làm hệ quy chiếu. Chúng có vai trò không khác gì một cái chai giam hãm cách tư duy và phạm vi lựa chọn hành động của chúng ta. Những gì ta được phép và không được phép làm trong một nền văn hóa tạo thành một đường biên bao quanh tư duy của ta. Giống như ví dụ về quả trứng của Columbus, nếu như
Cách đây 2 năm, lúc đang viết luận văn thạc sĩ của mình về đề tài chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ và Việt Nam, tôi mô tả tệ nạn hối lộ, tham nhũng như là một vấn đề về đạo đức. Ông thầy hướng dẫn nhận xét, không nên xem chúng như là một vấn đề thiếu sót về đạo đức và tìm cách giải quyết bằng cách cổ vũ rèn luyện, nâng cao đạo đức. Hối lộ và tham nhũng tồn tại ở mọi nước, trong mọi hệ thống chính trị. Điều quan trọng là phải thiết lập các cơ chế và thể chế thích hợp để giới hạn tệ nạn hối lộ và tham nhũng. Đó là lần đầu tiên tôi được biết ta có thể giải quyết những hành vi vô đạo đức như tham nhũng và ăn hối lộ không phải bằng cách đào tạo cho xã hội những công dân có đạo đức mà bằng cách thiết lập các cơ chế để ngăn ngừa và trừng phạt các cá nhân thực hiện hành vi vô đạo đức. Sau buổi nói chuyện hôm đó tôi có cảm giác như ông thầy đã nắm tóc, kéo đầu tôi ra khỏi cái chai “Văn hoá Khổng giáo Việt Nam” sang một cái chai “văn hoá Mỹ - Châu Âu” để tôi có dịp làm quen với một lối tư duy mới. [Nghĩ lại, thấy may mắn là mình đã không mím môi, mím lợi, cố bám tay, đạp chân vào thành chai để được rơi tọt trở lại môi trường đáy chai quen thuộc.] Ngược lại, tôi đoán ông thầy hướng dẫn của mình trong thời gian sống ở Hàn Quốc cũng đã từng bị người khác nắm tóc, kéo đầu lôi ra khỏi cái chai “Mỹ-châu Âu” để học hỏi những cái hay trong cái chai “văn hóa Khổng giáo Hàn Quốc.”
Dĩ nhiên, sau khi sống trong cái chai “Khổng giáo Việt Nam” hơn 30 năm và đã quá quen thuộc với môi trường trong đó, tôi không thể nào rời bỏ hẳn nó để chuyển sang sống trong một cái chai nào khác. Nhưng từ đó đến giờ tôi vẫn cố gắng đi qua đi lại giữa hai cái chai. Vẫn cố tìm tòi xem bên trong cái chai “văn hoá Mỹ - Châu Âu” có gì đẹp và hay, có gì đáng học hỏi để đem về áp dụng trong cái chai văn hóa Việt Nam. Như tôi đã có dịp trình bày, tôi không bác bỏ rèn luyện đạo đức. Xã hội và con người không thể tồn tại nếu không có đạo đức. Việt Nam có thể kết hợp cả hai đặc điểm rèn luyện đạo đức và thiết lập luật pháp nghiêm minh, chứ không nhất thiết chỉ chú trọng rèn luyện đạo đức mà bỏ qua việc phát triển hệ thống luật pháp như hiện nay, hoặc phụ thuộc quá nhiều vào bàn tay sắt của luật pháp mà sao lãng việc rèn luyện đạo đức con người như trong xã hội Mỹ. Một xã hội tốt đẹp đến mức hoàn hảo là xã hội tiếp thu và trộn lẫn những gì tinh túy nhất của phương đông và phương tây thành một tổng thể hợp nhất. Văn minh châu Âu không thể có được ngày hôm nay nếu không có sự đóng góp của các nền văn minh Trung Quốc, Hy Lạp, Hồi Giáo, Ấn Độ, văn minh người da đỏ Nam Mỹ, v.v. Văn minh nhân loại là như vậy. Nó kế thừa và vay mượn lẫn nhau, giao thoa với nhau. Tất cả chúng ta đều bơi trong cùng một đại dương. Những luồn chảy văn hóa khác nhau giúp cho biển văn hóa của nhân loại không bị ứ đọng và tù hãm. Nơi nào có những luồn văn hóa gặp gỡ và giao thoa, nơi đó có môi trường sống sinh tươi, đa dạng và phong phú. Ta cần học cách di chuyển giữa những chiếc chai!
0 Comments:
Post a Comment
<< Home