Sunday, May 13, 2007

New Blog Address

Tôi đã chuyển địa chỉ blog sang chỗ này http://hoangtq.wordpress.com/

Trang blog này thiếu những chức năng cho phép tôi phân loại bài vở theo những chủ đề khác nhau để người đọc dễ theo dõi và chọn bài.

Friday, May 11, 2007

Save the Darfur Puppy

The New York Times là tờ nhật báo có uy tín nhất và có số độc giả thuộc tầng lớp trí thức nhiều nhất ở Mỹ. Nhưng chính vì nhắm vào đối tượng độc giả trí thức nên nó không phải là tờ báo có số lượng phát hành nhiều nhất. Xét về số lượng phát hành, tờ NYT đứng thứ 3, sau hai tờ USA Today Wall Street Journal.

Để khuyến khích sinh viên đại học đọc báo cập nhật tin tức đồng thời nâng cao kỹ năng đọc hiểu, hai tờ New York TimesUSA Today cung cấp cho sinh viên các trường đại học Mỹ các số báo của nó miễn phí. Ở trường tôi, tại những địa điểm được nhiều sinh viên qua lại như trước thư viện hay gần khu vực canteen đều có một hộp báo, bên trong là hai chồng báo, USA Today một bên và NY Times một bên. Sinh viên nào muốn đọc phải dùng thẻ sinh viên của mình để mở hộp lấy báo. Cứ đi ngang các thùng báo này khoảng 12 giờ trưa là tôi thấy số báo NY Times hết sạch trong khi số báo của tờ USA Today vẫn luôn còn. Vì tờ USA Today thuộc dạng báo khá là “lá cải”, màu sắc lòe loẹt và có nhiều bài tường thuật về các ngôi sao điện ảnh, ca nhạc, thể thao nên không được giới sinh viên ưa chuộng. Đối tượng đọc tờ USA Today chủ yếu là sinh viên undergrad. Trí tuệ hơn, bọn sinh viên grad tụi tôi thường chỉ đọc tờ NYT.

Tờ NY Times gồm có 2 phần, nửa phần đầu dành đăng các thông tin quốc tế và nửa sau dành cho thông tin nước Mỹ. Hai trang kế cuối là nơi đăng các bài xã luận, ‎ý kiến bạn đọc và các bài phân tích, phê bình (opinion-editorial) của những nhà báo kỳ cựu và uy tín của tờ báo. Gặp lúc bận rộn, tôi thường xem lướt qua các mục thông tin quốc tế và thông tin nước Mỹ nhưng không bao giờ bỏ qua các bài op-ed. Mặc dù đã biết những người phụ trách chuyên mục op-ed (columnist) đều là những nhà báo và học giả sừng sỏ (như Paul Krugman, giáo sư kinh tế trường Princeton), tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên trước chất lượng của các bài op-ed. Với tổng số columnist là 7 người, trung bình mỗi một columnist phải viết 2 bài/tuần, vậy mà chất lượng các bài viết vẫn được duy trì ở mức độ rất đáng nể. Hầu như trong tất cả các số báo tôi đều học được nhiều ‎ý tưởng hay và sâu sắc qua những bài op-ed này.

Tôi thử giới thiệu dưới đây một bài op-ed của Nicholas D. Kristof đăng trên NYT ngày
9-5-2007. Bài viết hay, nhiều kiến thức, nội dung và phong cách bài viết rất tiêu biểu cho chủ đề phê bình chính trị-xã hội mà Kristof phụ trách. Tôi lượt bỏ một vài đoạn (vì lười và vì chúng hơi “khó dịch”) mà không làm ảnh hưởng nhiều đến nội dung bài viết.


Wednesday, May 09, 2007

Cứu Chú Cún Con Dafur

Nicholas D. Kristof
The New York Times

Cuối cùng, chúng ta cũng bắt đầu hiểu được muốn khích động Tổng thống Bush, những nhà lãnh đạo chính trị và công chúng Mỹ để họ ra tay can thiệp vào nạn diệt chủng ở Sudan thì ta phải làm gì: cần một chú cún con với cặp mắt to và đôi tai mượt.

Đó là bài học rút ra được từ một loạt các công trình nghiên cứu tâm lý học được thực hiện nhằm tìm hiểu tại sao những con người tốt bụng và có lương tâm lại không động lòng trước nạn diệt chủng hay nạn đói xảy ra trên thế giới. Rất nhiều lần chúng ta đã từng chứng kiến lương tâm con người không hề cắn rứt trước sự sau khổ của hàng trăm ngàn người nhưng lại xúc động và đau khổ chỉ vì một đứa trẻ (hay một chú cún con) đang gặp nạn.

Trong một thí nghiệm, các nhà tâm lý học yêu cầu những người dân thường đóng góp $5 để cứu giúp những nạn nhân đói khát ở nước ngoài qua 3 tình huống sau: (1) đóng tiền cứu giúp một cô bé 7 tuổi tên Rokia sống ở Mali; (2) đóng tiền cứu giúp 21 triệu người dân châu Phi đang đói; (3) đóng tiền cứu giúp cô bé Rokia nhưng lần này cô bé Rokia không phải là một cá nhân riêng lẽ mà là một trong số hàng triệu người đói khát trên toàn cầu.

Kết quả không có gì ngạc nhiên: những người tham gia ít sẵn lòng bỏ tiền ra giúp hàng triệu những con người đói khát mà họ không biết là ai, tên gì, sống ở đâu hơn là giúp cô bé Rokia 7 tuổi sống ở Mali. Nhưng trong trường hợp (3) mặc dù biết rõ tên tuổi, danh tánh của người cần giúp đỡ nhưng họ cũng không sẵn lòng giúp đỡ vì trong trường hợp này sự đau khổ của Rokia được xem là một phần của một vấn nạn to lớn, phức tạp hơn trên toàn cầu.

Có nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy con người phản ứng trước nỗi khổ của một cá nhân hơn là của một tập thể. […] Thậm chí một con vật dễ thương nào đó cũng có thể gây ra một phản ứng tương tự nơi con người. Một chú chó bị mắc kẹt trên một chiếc tàu làm khuấy động con tim của bao dân Mỹ đến mức $48,000 tiền túi riêng đã được quyên góp để cứu chú chó. Sau khi tôi đến thăm Darfur vào năm 2004, tôi hoàn toàn không hiểu được cảm xúc của công chúng Mỹ khi nỗ lực cứu một chú diều hâu đuôi đỏ, tên Pale Male, vì chú bị đuổi ra khỏi tổ của mình ở Fifth Avenue ở New York. Một con diều hâu không nơi nương tựa có thể khiến công chúng Mỹ phẫn nộ nhiều hơn là 2 triệu người Sudan trong cảnh màn trời chiếu đất? Tôi thật không hiểu.

Những nhà hoạt động giúp người nghèo thường thích trích dẫn con số 30,000 trẻ em trên thế giới tử vong hàng ngày do hậu quả của nghèo, đói vì họ cho rằng con số này sẽ là cú sốc khiến nhân loại phải có phản ứng. Nhưng ngược với sự mong đợi của họ, con số nạn nhân càng lớn, số người động lòng trắc ẩn càng ít.

Trong một thí nghiệm tâm lý học khác, 1 nhóm người được mời gọi gây quỹ $300,000 để trang trải viện phí cứu sống một em bé và 1 nhóm khác cũng có mục tiêu tương tự nhưng để cứu sống tính mạng của 8 em bé. Kết quả: tiền đóng góp cứu 1 em bé nhiều gấp đôi số tiền quyên được để cứu 8 em bé.

“Khả năng cảm xúc của chúng ta có giới hạn,” theo lời giáo sư Paul Slovic thuộc ĐH Oregon, tác giả của bài nghiên cứu “Psychic Numbing and Genocide” trong đó ông mô tả tất cả những thí nghiệm nêu trên. Giáo sư Slovic lập luận rằng chúng ta không thể trông đợi vào phẩm chất đạo đức bẩm sinh của ngay cả những con người tốt. Thay vào đó chúng ta cần có những cơ chế chính trị và pháp lý để có biện pháp đối phó với nạn diệt chủng.

[…] Nhưng thật tình mà nói, sau 4 năm chứng kiến Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, Toà án Tội phạm Quốc tế (International Criminal Court) và Công ước Ngăn ngừa và Trừng phạt Tội ác Diệt chủng (Genocide Convention) không có mấy hiệu lực trước vấn nạn ở Darfur, tôi hoài nghi không biết liệu khả năng duy lý của con người (human rationality) và luật pháp quốc tế có thể làm được gì nếu không có được sự ủng hộ của công luận.

Có một thí nghiệm chứng minh cho thấy giới hạn của khả năng duy lý của con người. Những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu đóng góp tiền giúp người nghèo nhưng trước khi đóng góp họ được chia làm 2 nhóm. Một nhóm được yêu cầu thảo luận về đề tài trẻ em (để khơi dậy cảm xúc của họ) và nhóm kia được yêu cầu thực hiện các phép tính toán học (để khơi dậy khía cạnh duy lý). Kết quả: những người làm toán quyên góp ít tiền hơn.

Có lẽ cái mà chúng ta cần không phải là nhiều luật pháp tốt hơn (better laws) mà là nhiều lương tâm biết xúc động hơn— những lương tâm bị cắn rứt vì hình ảnh một chú cún con tên Darfur với đôi mắt to và đôi tai mượt. Một khi chúng ta tìm thấy một chú chó đáng thương như vậy đang gặp nạn, chúng ta nên gọi điện thoại cho hãng tin ABC. Khả năng đánh giá thông tin của hãng ABC đã được thể hiện rõ qua việc hãng dành tổng cộng 11 phút trong bản tin tối để tường thuật về nạn diệt chủng ở Darfur trong nguyên cả năm qua — so với 23 phút tường thuật sự kiện kẻ sát nhân giả mạo trong vụ án liên quan đến cái chết bé gái JonBenet Ramsey.

Nếu như Tổng thống Bush và công chúng toàn cầu không động lòng trước thảm cảnh chết chóc của hàng trăm ngàn người đồng loại, có lẽ hy vọng sót lại cuối cùng của chúng ta là lương tâm chúng ta sẽ bừng tỉnh trước cảnh một chú chó con đang gặp nạn.

Good Question, Vietnam

Mark Ashwill, hiện đang điều hành trung tâm IIE tại Hà Nội từng là giảng viên khoa Giáo dục Tổng quát tại trường Ðại học bang New York, thành phố Buffalo. Ông là người có nhiều thiện chí muốn giúp đỡ nhân dân Việt Nam, Lào và Cambodia. Ông đã thành lập Tổ chức Giáo dục Mỹ-Ðông Dương, một tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ, với mục đích giúp đỡ sinh viên các nước Việt Nam, Lào, và Cambodia có cơ hội sang Mỹ du học nhằm góp phần xây dựng đất nước khi họ quay về. [Nghe nói cảm tình đặc biệt của ông dành cho người dân Việt Nam xuất phát từ một cuộc gặp gỡ giữa ông và một người con gái Hà Nội dễ thương nào đó.]

Vào năm 2005, khi đang còn giảng dạy ở trường đại học Buffalo, Ashwill có dự định xuất bản một cuốn sách song ngữ Anh-Việt trình bày một bức tranh tổng quát về lịch sử, văn hóa, xã hội nước Mỹ cho những đối tượng sinh viên, phụ huynh, và các nhà giáo VN quan tâm đến việc sang Mỹ hay gởi con sang Mỹ du học. Điều đặc biệt của cuốn sách, dự định sẽ có tựa đề FAQ About America (Frequently Asked Questions about America), là ở chỗ nó là tập hợp những bài viết ngắn khoảng 350 từ trở xuống để trả lời cho một câu hỏi cụ thể nào đó do một người Việt Nam đặt ra. Để thu thập những câu hỏi về nước Mỹ do người Việt đặt ra, Ashwill đã nhờ mạng lưới những sinh viên Việt Nam mà ông quen biết post thông tin về cuốn sách lên các diễn đàn trên mạng.

Tôi không biết tổng cộng số câu hỏi mà ông nhận được là bao nhiêu, nhưng danh sách các câu hỏi cuối cùng được đánh giá là có chất lượng và được dịch sang tiếng Anh để từ đó gởi cho các giáo sư Mỹ là 168 câu, chia theo các chủ đề kinh tế, lịch sử, chính trị, tôn giáo, giáo dục, chính sách đối ngoại v.v. Những người tham gia vào dự án này sẽ chọn một vài câu hỏi mà họ thích trong số danh sách 168 câu và viết bài trả lời.

Do số lượng các giáo sư Mỹ ở trường Buffalo đồng ý cộng tác để viết bài trả lời là khá ít ỏi, Ashwill đã “rủ rê” tôi tham gia vào dự án của ông. Nhờ vậy tôi có dịp xem qua 168 câu hỏi nói trên. Điều làm tôi khá bất ngờ là chất lượng của các câu hỏi. Chúng thật sự phản ánh sự hiểu biết và mối quan tâm của người đặt câu hỏi về nước Mỹ. Một số câu hỏi gần như “thách thức” người trả lời, chẳng hạn như “Why does America appear to be the major factor in almost every war?”, hay “I have learned America is a free country; what is the real freedom in this country?”. Tôi đoán đa số các câu hỏi được nêu ra bởi các du học sinh Việt Nam đang học ở Mỹ hoặc ở một nước ngoài nào đó, vì ta có thể thấy rõ điều này qua hai câu hỏi sau:

1. From what I learned from the recent public hearings of the National Commission on Terrorist Attacks Upon the United States in my PolSci class, Clinton administration's focus was on dealing with international terrorism, while Bush crew seems to have been interested in Saddam Hussein and his Iraq. Had it not been for the power switch from Clinton to Bush, do you think 9/11 could have been prevented and how, given the significant difference in their counter-terrorism policy?

2. The American model of democracy is not necessarily the only and the best one in the world. We have East Asian democratic models (Japan, Korea), Northern European (Norway, Denmark, Sweden) and many others. Notwithstanding that fact, most American people I meet tend to associate democracy with America and vice versa. To what should we attribute this 'symptom'?

Chính vì chất lượng của các câu hỏi mà tạp chí Harper’s Magazine trong số báo tháng 1-2005 đã đăng lại 20 câu hỏi có chọn lọc, dưới tiêu đề “Good question, Vietnam”. Ngoài phần thông tin về nguồn gốc các câu hỏi, tờ báo không đưa ra nhận xét hay bình luận gì thêm. Không biết ai là người chọn 20 câu hỏi này, nhưng đa số thể hiện thái độ khá là “thiếu thân thiện” với nước Mỹ. :)

Bạn có thể xem các câu hỏi này ở đây.

Về phần mình, tôi chọn 3 câu hỏi sau để trả lời:

1. Vietnam has a long history of respect towards teachers, while I hear that in America, students and teachers are often at the same level. Is that true? How do you explain it? And what impact does it have on the American education system?

2. What do American students learn about the Vietnam War? What is American history's view about the war?

3. How much of Native American culture remains in the present culture?

Câu hỏi thứ nhất đụng chạm đến mối “quan tâm nghề nghiệp” của tôi vì vậy tôi chọn nó.
Câu hỏi thứ 2 thì quá rõ ràng, là người Việt chẳng lẽ tôi lại không quan tâm muốn biết học sinh Mỹ học những gì về chiến tranh Việt Nam.
Câu thứ 3 là vì tôi được học và đọc một số sách liên quan đến văn hóa người da đỏ. (Hôm nào siêng tôi sẽ trình bày một quan điểm đúng đắn hơn về văn hóa người da đỏ. Vào thời điểm Columbus đến châu Mỹ, từ “man rợ” hay “mọi rợ” mà người người châu Âu da trắng dùng để mô tả ngừơi da đỏ có lẽ áp dụng cho chính họ thì thích hợp hơn).

Ba câu trả lời được viết bằng tiếng Anh nên tôi không dám post lên đây, sợ mọi người đọc thấy lung tung quá rồi … chạy mất dép.

Wednesday, May 02, 2007

Good news about a new blog

Sau một thời gian dài tưởng không đi tới đâu, cuối cùng anh bạn GS Computer Science ở trường tôi cũng đã tập hợp được thêm 4 người nữa tham gia xây dựng trang blog bàn luận, nghiên cứu các vấn đề kinh tế-xã hội. Hiện tại trang blog đang được xây dựng và chúng tôi đã upload lên một số các bài viết cũ của mình. Các bạn có thể ghé qua xem trang blog ở địa chỉ này:

http://www.procul.org/ideas/

Tạm thời trang web vẫn chưa có một cái tên chính thức và chúng tôi vẫn đang tìm
một cái tên có thể thể hiện đúng tinh thần của những người viết bài. Nếu bạn nghĩ ra được một cái tên gì mà bạn thích, xin để lại phản hồi ở phần comment cho chúng tôi biết.

Hiện tại "ngôi nhà" mới này vẫn còn khá xa lạ với chúng tôi và những bài đã được đưa lên toàn là các bài viết học thuật nghiêm túc. Hy vọng sau vài tuần (hay vài tháng :-), chúng tôi sẽ cảm thấy thoải mái hơn và sẽ cho ra những bài viết ngăn ngắn, nhẹ nhàng, và dễ đọc.

Thank you tất cả các bạn đã ghé đọc và bình luận trên blog của tôi. Trong thời gian qua tôi khá bận rộn vì phải chuẩn bị thi một kỳ thi quan trọng. Thi xong thì cảm thấy không còn năng lượng để làm chuyện việt lách linh tinh gì khác nữa. Cũng may là chỉ còn vài tuần nữa là đến hè. Hy vọng lúc đó tôi sẽ có nhiều thời gian rảnh tán dóc với các bạn nhiều hơn. :-)

Tuesday, May 01, 2007

Pearls before breakfast


Xem xong The Lives of Others tôi không thể không nghĩ đến bài “Pearls before Breakfast” đăng trên Washington Post Online ngày 8-7-07 - bài viết thành công nhất từ trước đến nay của nhà báo Gene Weingarten. Sau khi bài báo được đăng, tác giả đã nhận được trên một ngàn e-mail từ độc giả khắp nước Mỹ và một số nước khác như Canada, Israel, Pháp, v.v., trong đó có hơn 100 người thú nhận đã khóc khi đọc bài báo của ông. Vậy bài báo đó viết về cái gì và có liên quan gì đến bộ phim The Lives of Others?

Trước hết ta cần hiểu sơ qua về ý nghĩa của tựa đề bài báo. Thông thường, các nhà văn, nhà báo chọn lựa tựa đề cho bài viết hay tác phẩm của họ một cách rất cẩn thận vì (a) họ muốn thu hút sự chú ý của độc giả ngay từ cái nhìn đầu tiên, và (b) họ muốn thâu tóm toàn bộ ý tưởng chính yếu nhất của bài viết qua một vài từ ngắn gọn. Chọn tựa đề cho bài viết vì vậy là cả một nghệ thuật.

“Pearls before breakfast” có nguồn gốc từ câu thành ngữ tiếng Anh “to cast pearls before swine” nhưng đã được tác giả thay đổi đôi chút cho phù hợp với nội dung bài viết. “To cast pearls before swine” có nghĩa đen (thùi lùi) là “ném ngọc trước mặt lũ heo”. Dĩ nhiên, ngọc là vật trang sức đẹp và quí‎ giá, nếu ta đem đặt nó trước mặt đám con cháu họ Trư thì không thể có chút hy vọng chúng sẽ biết thưởng thức. Như vậy, câu thành ngữ tương đương trong tiếng Việt chúng ta là “đàn gảy tai trâu”, hay “đem bông hoa nhài cắm bãi phân trâu”, hay “đem hồng ngâm cho chuột vọc; đem hạt ngọc cho ngâu vầy”. [Thú thiệt, câu cuối tôi lấy từ tự điển tinhvan.com trên mạng chứ tôi cũng chưa từng biết bao giờ!] Hoàn toàn ngẫu nhiên câu thàng ngữ “đàn gảy tai trâu” lại mô tả chính xác nội dung bài báo. Vậy ai đem đàn đi gảy cho trâu nghe? Và ai là trâu ở đây?

“Pearls before breakfast” tường thuật lại một cuộc thử nghiệm được tờ Washing Post tiến hành tại Washington D.C vào lúc 7:51 sáng thứ 6 ngày 12 tháng 1 năm 2007 để trả lời những câu hỏi sau. Cải trang một nhà vĩ cầm danh tiếng nhất thế giới thành một nghệ sĩ đường phố và để nhà vĩ cầm biểu diễn những bản nhạc danh tiếng nhất thế giới trước khu vực nhà ga Metro nơi có hàng ngàn người ra vào mỗi buổi sáng thì chuyện gì sẽ xảy ra? Liệu anh ta có thể thu hút được bao nhiêu người dừng chân thưởng thức tiếng đàn vĩ cầm của mình? Liệu nhà vĩ cầm bậc thầy sẽ nhận được bao nhiêu tiền từ tấm lòng cảm kích của những người qua đường?

Không cần đọc tiếp nhưng dựa vào tựa đề của bài báo bạn chắc cũng có thể đoán được kết quả của cuộc thử nghiệm ra sao. “Pearls before Breakfast” mô tả câu chuyện nhà vĩ cầm danh tiếng Joshua Bell đem tiếng đàn điêu luyện của mình ra gảy cho đôi tai [trâu] của những người dân Washington vào giờ ăn điểm tâm sáng. Quá bận rộn lo lắng cho công việc, những con người bất hạnh này không thể chú tâm dù chỉ là giây lát để lắng nghe đến tiếng đàn vĩ cầm réo rắt và điêu luyện của Bell. Trong suốt 46 phút đứng trước bến xe điện ngầm và biểu diễn 6 bản nhạc cổ điển của những nhà soạn nhạc danh tiếng nhất thế giới–từ Bach cho đến Schubert cho đến Manuel Ponce và Jules Massenet–cho cả thảy 1,097 người đi qua, tổng cộng chỉ có 27 người chậm bước chân để ném tiền vào trong chiếc hộp anh để dưới đất (tổng cộng là $32 và vài đồng tiền lẽ), và có vỏn vẹn đúng 7 người thật sự dừng dân lại để nghe tiếng đàn của Bell trong 1 phút hoặc lâu hơn. Hơn một ngàn người còn lại không chậm bước chân mà thậm chí cũng chẳng buồn ngoái đầu để xem tiếng đàn xuất phát từ đâu ra và ai đang chơi đàn.

Cuộc thử nghiệm trên được tiến hành trước nhà ga L'Enfant Plaza và hầu hết những người sử dụng bến này là nhân viên văn phòng cấp bậc trung của chính phủ. Tức đa số là những người có học vấn và văn hóa. Trong số hơn một ngàn người đi qua, chỉ có duy nhất một người nhận ra Bell là ai. Bà ta dừng lại và đứng nghe Bell biểu diễn cho đến phút cuối. Sau đó khi được phóng viên báo Washington Post hỏi ý kiến, bà cho biết: "It was the most astonishing thing I've ever seen in Washington. Joshua Bell was standing there playing at rush hour, and people were not stopping, and not even looking, and some were flipping quarters at him! Quarters! I wouldn't do that to anybody. I was thinking, Omigosh, what kind of a city do I live in that this could happen?

Có quá nhiều điều bất ổn khi hơn một ngàn người đi qua mà chỉ có vài chục người để ‎ý đến tiếng đàn và người chơi đàn. Trong bài báo tác giả đã cố gắng trung lập hết mức khi đưa ra một vài giả thuyết để giải thích hiện tượng đáng buồn trên.

  1. Bối cảnh đóng vai trò rất quan trọng. Thời điểm và địa điểm cuộc thử nghiệm không phù hợp để thu hút người nghe. Giống như đem một bức danh họa treo trong một quán ăn bình dân và kỳ vọng mọi người chú ‎ đến nó, điều này là hoàn toàn không hợp l‎ý‎‎.
  2. Giả thuyết của Joshua Bell: những người qua đường cố tình không chú ý‎‎‎ nhìn đến anh vì không muốn cảm thấy lương tâm cắn rứt vì đã không cho người nghệ sĩ nghèo chút tiền. Họ không muốn có cảm giác như đang “trấn lột” anh.

Đa số ý‎‎‎ kiến của độc giả gởi cho tác giả bài viết xoay quanh lập luận #1 ở trên. Nghệ thuật cần được thưởng thức đúng nơi, đúng chỗ. Không phải ai cũng rành âm nhạc cổ điển và 7 giờ sáng là thời điểm mọi người đều bận rộn, đầu óc lo lắng, đó không phải là thời điểm phù hợp để làm thí nghiệm. Tuy nhiên, điều mà tác giả bài báo muốn nhấn mạnh không phải là trình độ thưởng thức âm nhạc cổ điển của người dân Mỹ. Điều khiến ông ta cảm thấy thật sự bất ổn qua cuộc thí nghiệm này là dân Washington (hay có thể là đại đa số dân Mỹ nói chung?) không có khả năng mở rộng đôi tai, đôi mắt và tâm hồn để đón nhận những gì thanh tao và đẹp đẽ nhất của cuộc sống.

Sau khi cuộc thử nghiệm kết thúc và ngồi xem lại cuộn băng ghi hình toàn bộ cuộc thí nghiệm, điều băn khoăn duy nhất còn lại của tác giả bài báo không phải là tại sao người qua đường không dừng chân thưởng thức tiếng đàn kỳ diệu của Bell, mà tại sao không mấy ai buồn ngoảnh mặt chú ‎ý đến tiếng đàn. Nói cách khác, câu hỏi đặt ra ở đây là, ngoại trừ một số nhỏ đang nghe nhạc trên máy IPOD hay đang đeo heaphone nói điện thoại, lỗ tai của một ngàn người còn lại có nghe được tiếng đàn của Bell không? Nếu họ có nghe tiếng nhạc, theo lẽ thường tình họ sẽ phải đưa mắt tìm kiếm người chơi đàn. L‎ý do nào họ khiến họ không đưa mắt nhìn Bell? Bell đưa ra lời giải thích của mình ở trên (#2) để l‎‎ý giải. Đáng tiếc là khi phóng viên báo Washington phỏng vấn những người đi ngang qua chỗ Bell đứng, không một ai đưa ra l‎ý do này để giải thích. Tất cả đều cho biết trong đầu họ đang bận tâm lo nghĩ và tính toán cho công việc. Chỉ còn một kết luận hợp lý cuối cùng: dân Washington quá bận tâm đến công việc, quá lo toan bận rộn đến các chi tiết cuộc sống cá nhân, quá chú trọng đến thế giới nội tâm bên trong đến mức không hề quan tâm đến những gì xảy ra xung quanh.

Nếu ta giả sử Bell đi sang một quốc gia nào đó ở Phi Châu nơi đang xảy ra một cuộc nội chiến đẫm máu và đứng gảy đàn tại một địa điểm đẫm máu nhất, xung quanh là đạn bay, bom nổ và hàng chục xác chết nằm la liệt thì ta có thể hiểu được nếu không một ai vây lại quanh anh để nghe tiếng đàn. Bản năng sinh tồn mạnh hơn bản năng hướng đến nghệ thuật. Nỗi sợ hãi trước cái chết ngăn không cho bước chân của con người tìm đến nghệ thuật. Nhưng ở Washington D.C không có bom, đạn và xác chết – xác ướp chắc cũng không có trong các viện bảo tàng ở Washington– vậy thì cái gì mạnh hơn nỗi sợ cái chết khiến người dân Washington không thể dừng chân hay ngoảnh đầu đón nhận thứ âm nhạc tinh tuý và kỳ diệu nhất của nhân loại? Họ còn sống hay là họ đã chết? Hay chính xác hơn là tâm hồn họ còn thức tỉnh hãy đã chết? Họ là những cái xác vô hồn, những bóng ma vật vờ trên đường phố?

Theo bộ phim The Lives of Others người chưa đánh mất hết lương tri và còn có thể cứu vãn là người vẫn còn quan tâm và biết xúc động trước cái đẹp của nghệ thuật và âm nhạc. Âm nhạc và nghệ thuật có khả năng đánh thức và cứu chữa những tâm hồn đui mù, què quặt vì đặc tính vĩnh cửu của nó, vượt qua biên giới của sự sống và cái chết (biên giới thời gian) và vượt qua tất cả những biên giới ràng buộc của thế giới vật chất (biên giới của không gian). Nếu như đang sống một cuộc sống vật chất đầy đủ nhất và văn minh nhất nhưng lại không có khả năng để lắng nghe (khoan nói đến chuyện thưởng thức) thứ âm nhạc kỳ diệu nhất được biểu diễn bởi một trong những tay đàn kỳ diệu nhất trên hành tinh, vậy ta sống vì cái gì? Ta đang theo đuổi những giá trị gì? Khái niệm chân, thiện, mỹ có còn chỗ đứng trong cuộc sống của ta? Có biết ta đang đâm đầu về đâu và đang trở thành cái gì?

~.~.~

1. Để hiểu tại sao có người lại khóc khi đọc bài báo trên, bạn cần đọc toàn bộ bản gốc bài báo tiếng Anh. Vài hàng tóm tắt và nhận xét của tôi cũng giống như tôi đang cố gắng giúp bạn hình dung ra hình dạng của một con voi ra sao bằng cách mô tả cái vòi và đôi tai của nó :-).

2. Bạn có thể tự mình đánh giá khả năng chơi đàn của Bell bằng cách nghe toàn bộ 6 bản nhạc được anh biểu diễn trước nhà ga Metro ở đây. Quan trọng hơn, bạn có thể thành thật trả lời với bản thân, nếu là tôi, liệu tôi có dừng chân hay ít nhất cũng đưa mắt tìm kiếm người chơi đàn? Tôi đã biết câu trả lời của bản thân mình là gì. Lương tri của tôi chỉ mới … thiu thiu ngủ, chưa chết. :-)

3. Trong khi đang ngồi trong thư viện “mổ cò” bài viết này, tôi không để ý thấy một cô bé Mỹ đi quanh thư viện và mời các sinh viên ăn bánh cookie miễn phí. Khi cô bé đến đứng cạnh tôi và mời tôi ăn bánh, tôi giật mình. Vì không biết ăn bánh có phải trả tiền không nên tôi đành từ chối. Sau đó tôi thấy những người bên cạnh ăn bánh mà không hề phải trả tiền nên cũng có chút hối tiếc :-). Nhưng điều tôi muốn nêu lên ở đây là tôi chẳng thấy một ai trong số những người nhận bánh thắc mắc tại sao cô bé lại mời họ ăn bánh miễn phí. Đây là lần đầu tiên có người vô thư viện mời sinh viên ăn bánh. Chẳng lẽ họ không có chút thắc mắc nào sao? L‎ý do gì? Dịp lễ gì? Cô bé đại diện cho tổ chức nào? Vậy mà chẳng một ai quan tâm đặt câu hỏi. Chúng tôi quá bận rộn với bài vở và thi cử nên không thể dành chút sự quan tâm cho người khác? Không có khả năng tiếp nhận những thông tin không cần thiết cho nhu cầu cá nhân? Không thể mở rộng đôi chút tấm lòng cho người khác? Cũng như 1,097 người dân Washington không thể mở đôi tai hay cặp mắt tiếp nhận Bell và tiếng đàn của anh?

Sunday, January 14, 2007

Saying "No" to Consumerism

Báo IHT online ngày 3-1-2007 có đăng bài "For these consumers, a new year of nothing new". Đại khái bài báo kể lại câu chuyện về một nhóm 10 người bạn họp mặt nhau ăn tối. Vốn có ý thức bảo vệ môi trường cao, sau hồi trà dư tửu hậu, nhóm đi đến một quyết định táo bạo: trong toàn năm 2006 nhóm tuyên thệ sẽ không mua sắm thêm bất cứ vật dụng gia dụng gì mới trong gia đình. Tất nhiên những mặt hàng hóa thiết yếu như thực phẩm, các vật dụng liên quan đến nhu cầu vệ sinh, thân thể, sức khỏe, thuộc diện ngoại lệ và không chịu sự ràng buộc nói trên.

Một thành viên của nhóm cho biết lý do tại sao họ quyết định nói “không” với việc mua sắm hàng hóa: "Điều chúng tôi làm là để tự giác ý thức được sự quá trớn của nền văn hóa tiêu dùng và ý thức được rằng chúng tôi đang làm cạn kiệt nguồn tài nguyên trái đất và mang lại đau khổ, bất hạnh cho nhiều người dân thế giới".

Từ San Francisco ý tưởng của nhóm lan truyền sang các thành phố khác thông qua con đường internet và nhờ vào cuộc phỏng vấn trên chương trình "Today" của đài NBC. Gần 3.000 người đăng ký gia nhập nhóm trên Yahoo để chia sẻ thông tin và kinh nghiệm.

Trong thời gian “tẩy chay mua sắm hàng hóa” nếu chẳng may có vật dụng nào trong gia đình bị hỏng thì họ xử lý ra sao? Họ mua đồ cũ ở cửa hàng đồ cũ, ở cửa hàng dành cho người thu nhập thấp, hoặc đổi đồ với nhau. Chẳng hạn anh có dư một máy hút bụi không xài, máy hút bụi của tôi hư nhưng tôi có một cái TV dư, vậy ta đổi cho nhau. Ngoài ra nhóm còn khám phá ra được trang web www.freecycle.org, trên đó người ta thông báo cho miễn phí các món đồ cũ họ không còn xài.


Cảm giác của các thành viên trong nhóm sau một năm tự nguyện tẩy chay không mua sắm: cảm giác được tự do, được giải phóng, tiền trả thẻ tín dụng giảm đi, và chẳng bao giờ phải hối tiếc vì lỡ mua một món hàng không cần thiết. Nhiều người trong nhóm còn khám phá ra họ có khả năng sửa chữa các đồ vật lặt vặt trong nhà. Một số khác cho biết họ biết trân trọng những đồ vật họ sở hữu hơn. Sau tất cả những kinh nghiệm quý giá này, nhóm quyết định thực hiện ý tưởng này thêm một năm nữa.

Theo báo IHT cho biết, ý tưởng tẩy chay mua sắm của nhóm còn quá khiêm tốn và nhỏ bé so với ý tưởng của các cộng đồng “freegan” ở một số thành phố ở Mỹ và châu Âu. “Freegan” là những người cực lực phản đối chủ nghĩa tiêu dùng hàng hóa đến mức bất cứ khi nào có thể, họ ăn thức ăn lấy từ các thùng rác, họ đi lại từ nơi này sang nơi khác bằng cách nhảy tàu/đi lậu tàu (train-hop) để tránh phải dùng xe hơi gây ô nhiễm, và chọn nơi ở là những toà nhà bỏ hoang.

~.~.~

Sau khi tóm lược dịch xong bài báo trên, tôi tò mò không biết nguồn gốc chữ “freegan” là gì, bèn đánh chữ “freegan” vào google. Thật không ngờ, có cả một trang web http://freegan.info/ giải thích và cung cấp đầy đủ tất cả các thông tin về triết lý sống của những người freegan, làm cách nào gia nhập cộng đồng freegan, cách thức sinh sống của freegan, cách thông tin về an toàn và sức khỏe, giải thích ý nghĩa của chữ freegan, v.v.

Theo trang web giải thích, chữ freegan là chữ gộp của hai chữ “freedom” và “vegan”. “Vegan” là những người không dùng bất cứ sản phẩm nào có nguồn gốc từ thú vật để tránh không làm hại chúng. “Freegan” đẩy triết lý “không làm tổn hại đến một sinh vật sống khác” này đi xa thêm một bước vì họ nhận ra rằng trong một nền kinh tế công-nghiệp, sản-xuất hàng-loạt, có động-cơ là lợi-nhuận, việc bóc lột người, thú vật và bòn rút nguồn tài nguyên của trái đất tồn tại trong tất cả các hình thức sản xuất và trong tất cả các sản phẩm tiêu dùng. Do vậy, họ tẩy chay hoàn toàn tất cả các hình thức tiêu dùng, tẩy chay toàn bộ nền kinh tế lấy lợi nhuận làm trọng tâm. Những người freegan coi trọng lối sống cộng đồng, có ý thức quan tâm xã hội, đề cao tự do, hợp tác và chia sẻ với nhau.

Trên trang web có hình một cô gái đang lấy một bịch đồ ra khỏi một thùng rác. Nhưng bạn đừng liên tưởng đồ ăn trong thùng rác ở VN đến đồ ăn trong thùng rác của Mỹ. Trên trang web có giải thích những người freegan ăn đồ ăn lấy từ các thùng rác của nhà hàng, khách sạn, công sở và nhà dân. Nhưng đồ ăn các nhà hàng, khách sạn, công sở vất ra còn rất sạch sẽ và vệ sinh. Hoàn toàn không có vấn đề gì.

Có quá nhiều thông tin đáng chú ý trên trang web http://freegan.info, tôi không có thời giờ ngồi đọc và tóm dịch. Bạn nào quan tâm nên ghé vào trang web và tìm hiểu thêm về triết lý sống của những con người can đảm này. Đây cũng là một dịp để mở mang đầu óc, học hỏi được thêm thông tin về xã hội Mỹ.

~.~.~

Vậy những yếu tố nào trong xã hội Mỹ đã sản sinh ra những con người đầy ý thức xã hội và đầy lòng can đảm này? Theo kiến thức thô thiển, hạn hẹp của tôi, mô hình kim tự tháp về cấp bậc nhu cầu (hierachy of needs) của nhà tâm lý học Maslow có thể giúp ta hiểu được phần nào hiện tượng nói trên. Theo Maslow, nhu cầu con người có thể được phân chia theo 5 cấp bậc từ thấp đến cao. Một khi những nhu cầu ở cấp thấp đã được thoả mãn tự động con người sẽ đòi hỏi những nhu cầu ở cấp cao hơn phải được thoả mãn. Như trong hình (lấy từ trang web http://en.wikipedia.org/) cho thấy, nhu cầu sinh học của cơ thể (như ăn, uống, mặc, ở v.v.) và nhu cầu “an toàn cuộc sống” nằm ở mức thấp nhất. Một khi người ta đã có đủ cái ăn, cái mặc và một khi cuộc sống xã hội đã được bảo đảm an ninh, trật tự, tự nhiên con người sẽ đi tìm kiếm những hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu cao hơn như gia đình, bạn bè, lòng tự tin, tự trọng v.v.



Với một mức sống quá cao như trong xã hội Mỹ, việc một số nhỏ người Mỹ cố gắng thoả mãn những nhu cầu cấp cao hơn cho bản thân là hoàn toàn có thể hiểu được. Nếu sự thoả mãn do một cuộc sống vật chất đem lại là có giới hạn thì tình trạng gần như bão hòa về tiện nghi vật chất của xã hội Mỹ khiến cho một số người Mỹ hiểu và cảm giác được giới hạn này. Quay lưng lại với cuộc sống tiêu dùng để tìm kiếm những giá trị tinh thần cao hơn là chuyện dĩ nhiên. Một ngày nào đó khi VN đạt đến mức sống như xã hội Mỹ hiện giờ, tôi tin rằng cũng sẽ có một bộ phận người Việt chuyển sang tìm kiếm một lối sống thay thế khác như những người freegan nói trên.

Điều đáng bàn ở đây là, không cần phải đợi đến khi được sống ngập ngụa trong tiện nghi vật chất mới ta hiểu được điều này. E rằng đợi đến lúc đó thì đã xảy ra quá nhiều chuyện đáng tiếc không thể cứu vãn được nữa.

Sunday, December 24, 2006

Three grades of thinking

Chúng ta vẫn thường xuyên nghe đi nghe lại luận đề “Con người là động vật biết tư duy”, rằng sự khác biệt giữa người và vật là ở chỗ con người có khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề, còn con vật thì không. Chúng ta đã nghe lập luận này quá nhiều lần đến nỗi chúng ta tin vào sự đúng đắng tuyệt đối của nó và chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện tìm hiểu xem liệu bản thân ta hay những người xung quanh có thật sự suy nghĩ hay không. William Golding, nhà văn người Anh đoạt giải thưởng Nobel văn chương năm 1983, lại không hoàn toàn tin như vậy.

Trong một bài luận viết năm 1961 có tựa đề “Tư duy là sở thích của tôi”, ông phân loại tư duy của con người thành 3 cấp độ. Những người thuộc cấp thấp nhất, cấp độ 3, là những người chẳng hề dùng đến đầu óc để tư duy và họ chiếm 90% dân số nước Anh (ta có thể mở rộng ra cho 90% dân số thế giới). Cái gọi là tư duy đối với 9/10 dân Anh chẳng qua chỉ là một tập hợp những “thành kiến trong vô thức, sự thiếu hiểu biết và thói đạo đức giả” (unconscious prejudice, ignorance and hypocrisy). Để minh họa, Golding đưa ra ví dụ về một ông thầy cấp 2 của mình, một người tự nhận là có nhiều tư duy và nhiều lần khẳng định hùng hồn trước đám học trò về một cuộc sống lành mạnh về thể chất và tinh thần, về đạo đức và nghĩa vụ. Ấy vậy mà bọn học trò ai cũng biết ông là kẻ bợm rượu và mỗi khi đang giảng bài nếu thoáng thấy có bóng dáng một chiếc váy đi ngang qua cửa số là ông quay đầu nhìn như muốn sái cả cổ. Một vài ví dụ khác Golding đưa ra để minh họa cho hành vi và lối tư duy của những người tư duy cấp 3: đám đông la hét mừng rỡ đón chào vua hay nữ hoàng Anh đi ngang qua để thể hiện lòng yêu nước của mình, một thủ tướng Anh ra quyết định bỏ tù Nehru và Gandhi rồi tuyên bố làm như vậy là có lợi cho dân Ấn, hay các chính trị gia Mỹ câu trước tuyên bố hùng hồn về hoà bình thế giới, câu sau lại từ chối gia nhập Liên hiệp các Quốc gia [League of Nations, tiền thân của Liện Hiệp Quốc hiện nay]. Theo Golding, “tư duy” ở mức độ này nghiêng về cảm giác hay cảm xúc (feeling) nhiều hơn là lý trí.

Ở cấp độ cao hơn một bậc, những người tư duy cấp 2 khám phá ra rằng xã hội loài người chứa đầy những mâu thuẫn và những điều trái ngược nhau. Những người lên được tư duy cấp 2 là những người đứng tách biệt, lùi mình khỏi đám đông. Họ mở to đôi mắt và giong đôi tai để quan sát, tiếp thu, và phân tích. Người tư duy cấp độ 2 có khả năng đạp đổ nhưng không xây dựng được một kiến trúc mới thay thế cho cái họ đã phá hủy. Họ có thể đứng bên ngoài chế diễu đám đông cuồng nhiệt đang bày tỏ lòng hâm mộ trước các siêu sao điện ảnh và ca nhạc, hay chế diễu sự mâu thuẫn trong hành vi của những con chiên ngoan đạo một mặt tuyên bố sẵn sàng chìa má còn lại cho người khác tát nhưng mặt khác sẵn sàng cầm gươm, giáo tham gia thánh chiến. Nhưng ngoài việc chế diễu, vạch trần, đạp đổ các quan điểm mang tính thành kiến, sai lầm và lạc hậu, tư duy cấp 2 không đưa ra được một giải pháp tích cực nào thay thế.

Vạch ra những điểm yếu kém của các thế hệ đi trước có thể làm thoả mãn cái “tôi” của những người tư duy cấp 2 nhưng không mang lại cho họ cảm giác yên ổn. Họ giống như những người bơi giỏi, có thể bơi ra xa bờ để lại những người khác ở đằng sau. Nhưng ở xa bờ, mực nước vượt quá đầu họ và ở đó họ chỉ có đơn độc một mình. Pontius Pilate của La Mã cổ đại là ví dụ điển hình cho tư duy cấp 2. Ông đã từng phát biểu, “Sự thật là gì? Nó chỉ là cái mà người ta dùng để chấm dứt tranh luận thay vì để khởi đầu sự tranh luận”. Khác với người tư duy ở cấp độ 2, sau khi đặt câu hỏi “Sự thật là gì?” người tư duy đẳng cấp 1 sẽ bắt tay đi tìm kiếm và đưa ra câu trả lời thích đáng.

Dĩ nhiên, những người người tư duy đẳng cấp 1 là cực kỳ hiếm. Golding đưa ra Einstein làm một ví dụ. Ví dụ khác ông đưa ra chính là … bản thân ông, Golding. Ông giải thích rằng khi đạt đến đỉnh cao tư duy cấp độ 1 “tất cả các hệ thống chính trị, tôn giáo, tập tục xã hội, trung thành với truyền thống, quốc gia đều bị giựt đổ cho té nhào, như những trái táo thối rơi khỏi cành.” Ở đẳng cấp này, Golding tự xây dựng cho mình một hệ thống đạo đức và cấu trúc xã hội rất chặt chẽ và hoàn toàn lôgic, trong đó ông “gạt bỏ một loạt những thứ vặt vãnh, vô bổ như chính phủ, các tập đoàn kinh doanh lớn, quân đội, hôn nhân ….” Dĩ nhiên, ông khám phá được rằng đa số loài người hài lòng với cuộc sống mà họ đang có và chẳng ai hồ hởi muốn tham gia xây dựng cái thế giới “hoàn hảo” do ông nghĩ ra.


~.~.~

Pascal có câu nói nổi tiếng, “Con người là cây sậy biết tư duy”. Vậy Pascal đúng hay Golding đúng? Con người có thật sự biết tư duy?

Thật ra, nếu đọc kỹ toàn bộ đoạn văn Pascal viết và hiểu đúng những gì Golding trình bày, ta sẽ nhận thấy quan điểm của Pascal và Golding không đối chọi nhau. Pascal viết,

Con người chỉ là một cây sậy, một loại cây yếu ớt nhất trong thế giới tự nhiên, nhưng họ là một cây sậy biết suy nghĩ … Một hơi nước, một giọt nước cũng đủ để giết chết họ. Nhưng nếu có bị vũ trụ nghiền nát, thì sự hiện diện của con người vẫn còn cao thượng hơn thế lực đã giết chết họ, bởi vì con người ý thức được cái chết của mình và biết được ưu thế của vũ trụ, trong khi đó vũ trụ là vô tri, vô giác và không hề biết được điều này. Vì vậy tất cả sự tôn nghiêm của con người nằm ở chỗ họ biết tư duy. Chúng ta cần nâng cao vị trí của mình thông qua tư duy, chứ không thông qua chiều không gian và thời gian vì [chúng là vô hạn và] chúng ta không thể lấp đầy không gian và thời gian được. Vì vậy chúng ta hãy nỗ lc tư duy cho tốt [to think well]; đây chính là nguyên tắc của đạo đức.” (Penseés, VI: 347)

Pascal không kêu gọi con người “hãy tư duy đi”, vì nói vậy chẳng khác nào buộc tội họ là những sinh vật không biết tư duy. Golding cũng không nói rằng loài người không biết tư duy. Ngược lại, ông muốn chỉ ra cho thấy 90% loài người tin và chấp nhận một cách mù quáng những hành vi, tập tục, thể chế cổ hủ và tiêu cực trong xã hội. Pascal kêu gọi mọi người hãy “tư duy cho tốt” và xem đó là “nguyên tắc của đạo đức”, điều này cũng phù hợp với quan điểm của Golding khi ông đánh giá cao những cá nhân dám vươn mình bước lên trên đám đông, đạp đổ những “thành kiến, sự thiếu hiểu biết và thói đạo đức giả” và từ đó đề xướng ra những con đường đi mới.

~.~.~

Câu chuyện về ba ông thầy của tôi.

Câu chuyện thứ nhất: ông thầy khoa Nhân chủng học. Vừa về hưu năm ngoái vì đã 70 tuổi. Mấy câu cửa miệng ông thích trích dẫn: “People don’t think, they don’t want to think, because thinking is painful.” Và “We have culture to help us not to think”.

Câu chuyện thứ hai: ông thầy khoa Sử. Nhận xét về cuốn “Democracy in America” do một tác giả người Pháp, Tocqueville, viết vào giữa thế kỷ 19 sau khi đi vòng quanh nước Mỹ trong 9 tháng, một cuốn sách kinh điển về xã hội-văn hóa Mỹ mà cho đến nay sau hơn 150 năm vẫn chưa một tác giả Mỹ nào vượt qua được, ông nói: “Culture is something we don’t think about because we all take it for granted.” Rồi ông nói tiếp, đại khái một người nước ngoài từ một nền văn hóa khác sẽ dễ dàng nhận thấy những gì mà những người sống bên trong nền văn hóa không nhìn thấy. (Trong môt thoáng tích tắt, ông gieo vào đầu tôi ảo ưởng mình có thể trở thành một Tocqueville thứ hai :-).

Câu chuyện thứ ba: ông thầy gốc da đỏ dạy khoa Hoa Kỳ Học. Sau khi cho học trò xem xong một phim tài liệu mà bây giờ tôi không nhớ là về đề tài gì, ông chỉ bình luận một câu ngắn gọn, đại khái là: “It’s traditions that keep people from thinking.”

~.~.~

Cách đây 2 năm, có một anh giáo viên đại học ở Sài Gòn được học bổng qua chỗ tôi du học. Có một lần ngồi tán phét với nhau, hắn ta thú nhận từ nhỏ đến lớn ở VN hắn chưa bao giờ nghĩ rằng nữ giới thông minh như nam giới hoặc nữ giới có khả năng trí óc ngang bằng với nam giới. Chỉ khi đặt chân sang Mỹ du học hắn mới bắt đầu thay đổi quan niệm này. Tôi quên không hỏi điều gì đã gây ra sự thay đổi và lý do nào trong hơn hai mươi mấy năm trời hắn tin rằng phụ nữ là thua kém nam giới về khả năng trí tuệ và lãnh đạo. Tôi chỉ có thể suy đoán rằng đó là sản phẩm của một nền văn hóa Khổng giáo với những thành kiến phân biệt đối xử “trọng nam, khinh nữ” như “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “nam thượng nữ hạ”, hay “nữ nhân ngoại tộc”.

Văn hóa là những gì bao bọc, vây quanh ta hàng ngày. Chúng là một phần quen thuộc của cuộc sống đến nỗi ta chấp nhận và xem sự hiện diện của chúng là đương nhiên. Ít có ai bổng nhiên đi đặt câu hỏi: những điều bấy lâu nay ta vẫn làm có đúng không? có phải sinh con trai là tốt hơn sinh con gái? tại sao con trai lại tốt hơn con gái? Tôi đã thử vật lộn tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên dựa vào hiểu biết ít ỏi của mình về xã hội VN và cho rằng có 2 trường hợp có thể xảy ra. Trường hợp 1, người được hỏi những câu hỏi trên sẽ đưa ra những câu trả lời rất “củ chuối” đại loại như “vì xã hội/ông bà ta trước nay vẫn quan niệm vậy”, hay “sinh con trai để nối dõi tông đường” hoặc “vì con trai sẽ phụng dưỡng bố mẹ khi về già, còn con gái thì phải đi lấy chồng và chỉ biết lo cho chồng, con và gia đình chồng”. Đối với những người trả lời kiểu này này, nếu bị vặn hỏi tiếp, họ sẽ không thể giải thích được con gái và con trai khác nhau chỗ nào, vì sao con gái không thể nối dõi tông đường, và vì sao có những trường hợp con gái đi lấy chồng không thể quay lại chăm sóc cho cha mẹ mình. (Dĩ nhiên, con trai có bao giờ chăm sóc cho cha mẹ bao giờ, chúng lấy vợ và bắt vợ phải chăm sóc cho mẹ mình. Đó chẳng qua chỉ là một hình thức trao đổi “hàng hóa con người” trá hình: đổi con gái mình lấy con gái người khác về làm nô lệ trong nhà. Nếu không có con gái thì coi như lời to.)

Khá hơn một chút là những câu trả lời như “vì con trai dễ đạt được công danh sự nghiệp, mang lại vinh dự cho gia đình”, “vì con trai kiếm được nhiều tiền cho gia đình hơn con gái”, hoặc “vì con trai đóng góp được nhiều ích lợi cho xã hội hơn con gái”. Với những người này, việc giải thích để họ hiểu tại sao lại có những hiện tượng nam-giỏi-hơn-nữ sẽ mất khá nhiều thời gian. Họ cần phân biệt được sự khác biệt giữa nam và nữ do thiên nhiên tạo ra và sự khác biệt giữa nam và nữ do con người tạo ra. Nam giới có được tất cả những ưu thế nêu trên không phải là nhờ vào năng lực bẩm sinh mà là vì cơ cấu xã hội đã được thiết kế để cho phép nam giới có cơ hội làm những việc đó tốt hơn nữ giới. Điểm mấu chốt ở đây là sự bất bình đẳng về cơ hội, nó không liên quan gì đến sự khác biệt về mặt tự nhiên giữa nam và nữ.

Blog này có tên là no-mind là vì vậy. Đôi khi điểm xuất phát của một người thuộc dạng no-mind lại có nhiều ưu thế hơn những người chứa đựng quá nhiều nhận thức và thành kiến sai lầm trong đầu. Tháo gỡ những nhận thức và thành kiến sai lầm là một quá trình thật không đơn giản chút nào.

~.~.~

Phụ chú:

1. Trong bài viết của mình, Golding chỉ đề cập đến Einstein là người có tư duy ở đẳng cấp 1. Lẽ ra ông còn có thể kể tên ra một số nhân vật lịch sử khác ở châu Á như Khổng Tử, Phật Thích Ca, Gandhi, v.v. vì đây là những nhân vật đã để lại cho nhân loại một mô hình xã hội hoặc một triết lý sống gần như hoàn toàn tách rời khỏi những truyền thống đi trước và phần nào giải quyết được những vấn đề nhức nhối vào thời đó.

2. Nếu bạn đọc thấy trên blog này có quá nhiều ý kiến chê bai, chỉ trích nhưng lại thiếu ý kiến đóng góp, bạn phải hiểu rằng tôi đang mon men trèo các nấc thang để bước lên tầng 2 của toà nhà tư duy. Nói một cách khác, tôi chỉ có thể cố gắng đập phá cái chai để chui ra khỏi nó, nhưng chưa biết làm cách nào tạo ra được một cái chai khác to và đẹp hơn. “Đập phá” ở đây mang nghĩa bóng, ám chỉ đến sự thay đổi trong nhận thức về tư duy thông qua giáo dục, hy vọng nó sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi và tập tục xã hội. Tôi hoàn toàn ý thức được tác hại nguy hiểm của việc “đập phá cái cũ xây dựng cái mới” và hoàn toàn không chủ trương dùng bạo lực.

3. "Man can alter his life by altering his thinking" (William James). Vấn đề là bằng cách nào chúng ta có thể thay đổi được cách tư duy của mình? Ông bà ta đã có sẵn câu trả lời: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn.” [Câu này được dịch sang tiếng Anh nghe rất hay: Leave the village for a day and come back with a basketful of wisdom.] Nếu đi từ Huế vô Sài Gòn, ta sẽ học được nhiều điều mới mẻ và tư duy sẽ có vài chuyển biến, mặc dù vẫn còn trong phạm vi tư duy người Việt. Nếu đi từ Á qua Âu, chắc chắn sẽ có những thay đổi trong nếp tư duy, vượt qua cái khung văn hóa Việt. Ở đây tôi không hề có ý cổ suý cho việc bài các, chê bai, đạp đổ văn hóa Việt để trở thành một người châu Âu hay người Mỹ trăm phần trăm. Trong phần viết về “tư duy trong-cái-chai”, tôi đã nói rõ một thế giới hoàn hảo là thế giới kết hợp cả những cái hay của Á và Âu. Dĩ nhiên, câu hỏi cuối cùng là ta có làm được vậy không? Hay “Đông là Đông/Tây là Tây/Cả hai sẽ chẳng bao giờ gặp/hiểu được nhau”?

4. Vậy còn những người không có cơ hội đi đây đi đó? Họ cần đọc nhiều để phát triển óc tò mò và trí tưởng tượng của mình. Trí tưởng tượng càng phong phú, đầu óc càng ham học hỏi thì càng dễ tiếp nhận những kiến thức mới và mở rộng sự hiểu biết. [The man of prejudice is, a fortiori, a man of limited mental vision - Webster Dictionary.]

Tuesday, December 19, 2006

Unhappy-Happy in America

Có một câu hỏi mà dân Mỹ rất tò mò muốn biết bọn sinh viên quốc tế trả lời ra sao, đó là: Mày có dự định ở lại Mỹ sau khi tốt nghiệp không? Có đứa tế nhị hơn thì sửa đổi câu hỏi lại một chút thành: “Mày định làm gì sau khi tốt nghiệp?” Tính từ đó đến giờ, tôi đã phải trả lời cho câu hỏi này cũng gần một chục lần.

Động cơ thúc đẩy bọn Mỹ đặt câu hỏi này không phải chỉ có một. Ẩn chứa bên dưới bề mặt câu hỏi là một chuỗi các vấn đề liên kết với nhau. Câu trả lời “Có” không đơn giản chỉ làm thoả mãn lòng hiếu kỳ của người đặt ra câu hỏi muốn kiểm tra xem những gì người Mỹ biết được về thế giới nghèo đói bên ngoài thông qua báo chí, ti vi có đúng không. Nó còn khẳng định với dân Mỹ rằng họ đã có may mắn được sống trong một đất nước tươi đẹp, một giấc mơ thiên đường cho cư dân của thế giới thứ 3 (và thậm chí cả thế giới thứ 2). Sống trong một xã hội luôn tự hào về quyền tự do ngôn luận và có cơ hội tiếp xúc với những luồn thông tin trái ngược nhau về tình hình xã hội, thành phần có học trong dân Mỹ vẫn ý thức được tính chất “hai-mặt Janus” của nước Mỹ - một bên là sự xa hoa, giàu có không tưởng của giới có tiền, một bên là sự nghèo đói bần cùng của tầng lớp di dân, dân da đen, dân da đỏ ở tận đáy xã hội; một bên là những lý tưởng tôn giáo khước từ cuộc sống vật chất và đề cao sự hoàn thiện của thế giới tinh thần, bên còn lại là những siêu thị hàng hóa rực rỡ và lối sống chạy theo chủ nghĩa tiêu thụ không cần biết đến ngày mai. Không ít thì nhiều, chúng gieo vào trong tiềm thức của những người Mỹ có chút học thức và đầu óc sự hoài nghi và hoang mang về bản chất cuộc sống của xã hội Mỹ. Liệu con đường xã hội Mỹ đang đi là đúng? Liệu cuộc sống tràn ngập hàng hóa tiêu thụ có hẳn là cuộc sống lý tưởng? Liệu cuộc sống đề cao tính chất cộng đồng có thật sự ưu việt hơn cuộc sống đề cao cá nhân chủ nghĩa? Liệu một cuộc sống nghiêng về tinh thần có mang lại cho con người niềm hạnh phúc chân chính và lâu bền hơn là những giây phút hân hoan ngắn ngủi của vật chất và xác thịt?

Sự hoang mang này nằm yên lặng, tiềm ẩn dưới bề mặt của lý trí, nhưng giống như một lớp bùn mỏng nằm dưới đáy hồ, chỉ cần có chút khuấy động [bởi sự hiện diện của một người nước ngoài] chúng sẽ bị xáo trộn và cuốn lên bề mặt, vụt thành câu hỏi: “Mày có dự định ở lại Mỹ sau khi tốt nghiệp?” Câu trả lời “Có” hay ít ra là một cách thể hiện tương đương nào đó sẽ xóa tan mối hoài nghi trong lòng người hỏi và khẳng định với họ tầm quan trọng không gì thay thế được của cuộc sống kinh tế sung túc ở Mỹ.

Đối với câu hỏi này, tôi không có một câu trả lời nhất định. Câu trả lời của tôi phụ thuộc vào đối tượng đặt câu hỏi, hoàn cảnh và bối cảnh khi câu hỏi được đặt ra và tôi có được bao nhiêu thời gian để trả lời. Lần đang ngồi trong xe cùng với 2-3 đưa bạn, tôi trả lời ngắn gọn: Ở Mỹ hay về Việt Nam là một lựa chọn mang tính đánh đổi. Được cái này nhưng mất cái khác. Nó là một quyết định khó khăn, tao chưa biết được. Có lần khác bọn học trò trong lớp thắc mắc, tôi nói: Tao đã ký vô giấy tờ, học xong phải về nước. Bọn nó không hài lòng vẫn tiếp tục truy hỏi: Nhưng tại sao mày muốn về? Tôi trả lời cho xong chuyện: Tao muốn về làm một cái gì đó cho xã hội và đất nước tao. Vậy mà trông mặt bọn nó có vẻ tin vào lời tôi nói, thiệt ngố không tin nổi! Lần khác, có đứa đặt câu hỏi đó qua e-mail, tôi có rộng thời gian hơn để suy nghĩ và tìm cách trả lời cho dài dòng, văn hoa môt chút. Câu trả lời là như sau:

“This is a common question Americans ask foreign students all the time - does he or she plan to stay on in the US or go home? I guess the assumption is that if they want to stay here, that demonstrates the superiority of the US political, economic system. That's true but I would say sometimes things are more complex than that, and it's always a trade-off between staying here and going home. It reminds me of something I read in a book about Western tourists visiting Thailand and liking it a lot. The only complaint they made of Thailand is "Too bad there are too many Thai people here." In a way, that may apply to many foreign immigrants in the US too (“Too bad there are so many Americans here” or “Too bad there weren't more Chinese/ Vietnamese/Indians/etc. here”).

I never thought about staying in the US but the closer I get to completing the program, the more I have to think about it. On the one hand I want to go back because that's where I can function and do what I do best. On the other, I cringe at the thought of having to face bureacracy, corruption, and inefficiency. It's not an easy decision though and it is tied to a lot of factors. But in the end, I'll go back.”

Tất nhiên còn cả lô, cả lố những yếu tố khác mà nói ra chưa chắc nó hiểu.

Dù sao, đó là một câu hỏi không có câu trả lời cố định, không dành riêng cho bất cứ ai.

~.~.~

Cuộc sống ở Mỹ đối với những người nước ngoài thật không dễ dàng chút nào. Đối với những ai qua Mỹ khi còn ở lứa tuổi học trò, giai đoạn chuyển tiếp và hội nhập sẽ dễ dàng và tự nhiên hơn. Đối với những người đã trên tuổi hai mươi mấy, đi sang Mỹ với gánh nặng hành lý văn hóa bản địa trên vai, việc sửa đổi hành vi, thói quen cư xử, nếp suy nghĩ và học cách diễn đạt qua một ngôn ngữ mới là cả một quá trình đầy thách thức. Đầu óc họ trong giai đoạn đầu ở xứ lạ vì vậy luôn trong tình trạng “đi đi về về” giữa hai nền văn hóa. So sánh, đối chiếu giữa hai nền văn hóa là không điều thể tránh khỏi với họ, nó là hành động thuộc phạm vi tiềm thức, vượt qua tầm kiểm soát của bản thân. Chính vì vậy họ lại là những người hiểu biết và có cái nhìn sâu sắc về xã hội Mỹ. Bài viết dưới đây có tựa đề khá bi quan “Unhappy in America” nhưng không vì vậy mà ta có thể kết tội nó có cái nhìn một chiều phiến diện. Bài viết có nêu lên những mặt tích cực và tốt đẹp mà dân di cư nhận xét về nước Mỹ. Bài viết có nhiều nhận xét rất hay. Dân Ấn Độ quả đúng là có chiều sâu tư duy. Bài đáng để đọc hết, dù hơi dài, ở đây tôi đã cắt xén bớt khá nhiều.

~.~.~

Unhappy in America

America the beautiful? No thanks. All they want is a ticket back to India.

Little India, NCM Award Winner, Lavina Melwani, Posted: Feb 01, 2006

Can we call her Aparna? She is about to open up a vein and show you how she bleeds - but she's not about to tell you her real name. _She is nameless, faceless. But her story is partly yours and mine, of every immigrant who left some place to arrive some place else. She prefers to remain anonymous. Yet ask her about her life in America, and it's like opening the floodgates.


She is unhappy in America. Do you hear: unhappy! She wants to go back home! People are incredulous when they hear that: who in their right minds would want to leave America, the golden land of opportunities and dollar bills? You have people clawing and scratching, trying to get into America - and she wants to leave?

[...] The colors seemed to have been drained out of her life. Says Aparna, "The small pleasures of life I used to experience in India, I do not experience here. In India, standing on your balcony, you see life, you see kids playing, you see people sitting together. Neighbors stop to laugh and chat and find out how you're doing. _"Here I would sit on the deck in the suburbs. All around me, there are beautiful trees, beautiful landscapes, and lovely cars. But there are no people. You might as well hang up a pretty picture in your living room and just keep on watching that. What's the difference?"

[…] "Initially it was very depressing, because you miss your family and the whole culture is different. … The cultural difference is the biggest thing. It's tough to blend in with the people here. You may think you have a green card, you have citizenship, but you're just not amongst them. They still look at you as different."

[…] "I think each and every individual is here to make money. Personally if given a choice, each one of us would be there and not here. So I guess each one of us is compromising and trying to adjust."

[…] She acknowledges that Indian communities are growing in America, but she still does not find it the real thing: "Everything seems to be artificial and formal and people seem to be pretending. You feel as if everyone has a mask on their face. They are not the same any more."

[…] She feels in America, people are running on mental treadmills, with no time for anyone. You dare not drop in on a friend uninvited or dawdle with extended family, chatting over dinner on a weekday. She says, "It's this 'I'm really busy' attitude. It's the same 24 hours we used to have in India, the same 24 hours we have here. It's the same time, what's the difference, I don't understand. Yes, I know we don't have help here, but I'd make sure I give a hand with the dishes before I leave."

The only thing she appreciates about America is the freedom a woman gets and she savors the fact that she can drive around at midnight or walk on the street without being harassed, as was often her experience in India.

[…] Well-wishers point out to her the glittering wonders of America, the many malls where you can get anything your heart desires. She says, "Yes, because you don't have a family or circle of friends whom you can be with, you walk around malls and ultimately buy things. It's a consumer society and that's the only entertainment." People warn her that after being exposed to America's charms, she'll never be able to live in India again. She retorts, "You lived there for 25, 30 years, and now it's suddenly intolerable to you? I don't understand that. It's the same world, probably even better than what you had left earlier."

Finally, what is the green card really worth? Aparna has seen people who have been unable to attend the last rites of their beloved parents, because they did not want to jeopardize their chances of getting this little piece of paper.

She says, her voice breaking: "People tell me I'm getting emotional. Yes, sure I am. If you cannot be with your dying parent, then what is life all about? They invest all their love, time and effort in bringing you up and you cannot be there for that final goodbye? When the child is not there, what's the point?"

Shattered Dreams

Partha Banerjee can certainly tell you a thing or two about being unhappy in America. The people he deals with every day at New Immigrant Community Empowerment (NICE) in Jackson Heights, Queens, live incredibly difficult lives here in the richest, most affluent country on the planet.

His life in Southern and Central Illinois, and later in upstate New York was very spartan and emotionally bare: "These are small, cold desolate places and you have no friends.

***

It's miserable. If you have no job, you are ill or have some health problem, then that's the time you feel more isolated, more lonely. And that's the time you wish that you hadn't come to this country."

[…] Following a stint as a TV producer, he chucked it all to become a full-time advocate with NICE, doing grass-roots work with immigrants of all races and helping them in their day to day struggles.

And in taking a pay-cut and leaving academia and corporate America, Banerjee found himself. He says: "If you really are in a lifelong searching process, it's an exploration to find where you belong and what makes you happy. It's not about making money." _Would be go back? "This is a very difficult question, because nobody knows the real answer," he says. "Emotionally and spiritually I was much happier in India, but I have also gained a lot here. Not material gains, but intellectual and spiritual gains." _Spiritual gains in this hotbed of consumerism? He seems to have got it all wrong. Isn't India the place people go for spiritual gains? He says, "It's really about knowing yourself. In India surrounded by family, you don't really learn so much about yourself. Coming here to America and struggling, I got to know myself." Banerjee, whose inspiration is Swami Vivekanand, says, "I am much more privileged and much happier than before, now that I have found my own niche in working for the poor and the dispossessed."

Daily he sees the ugly underbelly of the American Dream as he fights for new immigrants, people whose dreams are completely broken. There are battered women who have no way of going back home; construction workers who are old and still struggling on scaffoldings for a pittance; domestic servants who are not even given a mattress to sleep on; the hundreds of men with Muslim names or brown faces who have faced a hard new America after 9/11; random victims of accidents, circumstances or crime. Being with them and providing them with some kind of hope and solidarity gives him satisfaction - and yes, makes him happy.

"There are so many stories of unhappy people," he says. He recalls a Bangladeshi couple, a doctor and a pharmacist, who won the Immigrant Diversity Visa lottery and came to this country to make it big. "Recently I saw him working at a gas station, pumping gas at 3 a.m. His wife is waiting on tables at a restaurant." _Then there are some elderly parents for whom the large suburban palaces of their children have nothing to warm them. Having joined their offspring in America, they are cut off from their life-source, marooned in a fast-moving America they cannot connect with, dependent on busy children who don't really have time for them.

***

[…] Many would be immigrants confuse the real America with the America perpetuated by Hollywood, enhanced with Dolby Sound. Whether it's a romantic comedy, a thriller or a musical, the women are sexy, the cars are fast - and yes, life is beautiful. All dilemmas are settled by the end of 90 minutes, and though you know it's just a movie, when you are living in India and have never seen America, it's all you have to go by. Yes, you see drug dealers and seedy neighborhoods in the movies, but isn't that just cinematic color and drama for the backdrop? Immigrants never picture themselves in that scene. They visualize a landscape where the streets are paved with gold, with a house in a pristine suburbs and a hefty bank balance.

It is often a rude awakening for a new immigrant to find himself in a rundown seedy apartment crawling with roaches and rats, counting pennies and struggling to hold on to a miserable job that he hates, if only for survival.

The faces of indifferent strangers greet him in the corridors and on the streets. At that moment, the string bed in the open courtyard of his village home, surrounded by loved ones and a pot of saag cooking on the family hearth, seems incredibly inviting. This too is somebody's American Dream gone awry.

Sunday, December 17, 2006

Moving in and out of bottles

Tôi không biết trong tiếng Việt khi muốn động viên một ai đó cần có suy nghĩ sáng tạo, không đi theo lối mòn, ta sẽ nói thế nào. Những cách nói thông thường như “phải động não đi chứ” hay “phải biết cách dùng đầu óc” không thể hiện được ý tôi muốn diễn đạt. Trong tiếng Anh có thành ngữ “think outside the box.” Lần đầu tiên nghe câu này tôi rất bị ấn tượng vì nó lập tức gợi lên trong đầu tôi hình ảnh một chiếc hộp nhỏ bé, ngột ngạt, giam hãm và cầm tù tư duy của con người.

Dĩ nhiên không phải chỉ có tôi mà một số đông dân Mỹ cũng có ấn tượng mạnh đối với cách diễn đạt này. Kết quả là sau một thời gian dài được quá nhiều người sử dụng, giờ đây thành ngữ trên đã mất tính độc đáo và trở thành một cụm từ khá sáo mòn. Hơn nữa, chẳng có mấy người Mỹ thật sự hiểu được thế nào gọi là “think outside the box.” [Trong tiếng Việt cũng có những hiện tượng tương tự. Chẳng hạn như khi nghe những câu như “Đầu tiên là tiền đâu” hay “Nhìn đời qua hai mảnh ve chai,” tôi đoán giờ chẳng có mấy người Việt Nam còn cảm thấy thích thú với chúng.] Nguồn gốc của câu “Suy nghĩ bên ngoài cái hộp” trong tiếng Anh được người ta giải thích là xuất phát từ câu đố 9 chấm như sau: Làm cách nào chỉ bằng một nét bút bạn có thể nối 9 chấm vẽ trên một trang giấy bằng 4 đường thẳng?




Như các bạn có thể thấy, nếu như trong khi cố gắng giải đáp bài toán, trong đầu của bạn chỉ có thể hình dung nối liền 9 chấm trong phạm vi đường biên giới hình vuông trên thì bạn phải cần ít nhất là 5 đường thẳng mới có thể giải được bài toán này. Để giải quyết được bài toán bạn cần bạn phải suy nghĩ thoát ra “bên ngoài cái hộp” hình vuông ấy. Chẳng hạn, bạn có thể nối liền 9 chấm theo hình sau:



Như vậy, bằng cách gạt bỏ đường biên giới hình vuông ra khỏi óc, bạn đã nới rộng phạm vi tư duy và phạm vi tự do hành động của mình. Giải pháp cho bài toán này cũng như nhiều bài toán khác trong cuộc đời, nó phụ thuộc vào việc bạn có thể xoá bỏ những rào chắn trong tư duy hay không.

Đó là cách người ta giải thích nguồn gốc thành ngữ “think outside the box.” Câu thành ngữ này được giới tư vấn kinh doanh và quản trị ở Mỹ sử dụng nhiều. Có lẽ vì lĩnh vực quản trị-kinh doanh là lĩnh vực quan trọng mang lại hàng triệu đôla lợi nhuận nên những người sử dụng nó có cơ hội xuất hiện nhiều trên truyền hình hay được trích dẫn nhiều trên báo chí. Cụm từ “think outside the box” do đó có cơ hội truyền bá đến số đông dân chúng.

Còn một cách diễn đạt và một khái niệm khác không kém phần hấp dẫn mà rất ít người biết và sử dụng. Lý do có thể là vì nó có nguồn gốc xuất phát từ triết học, mà như tất cả chúng ta đều biết, triết học không phải là môn học có giá trị thực tế. Như những ai đã từng tìm đến các giảng đường triết học để chữa chứng bệnh mất ngủ kinh niên của mình đều biết, nó không giải quyết những vấn đề thiết thực như cơm-áo-gạo-tiền của cuộc sống mà chỉ bàn đến những vấn đề cao siêu ít người quan tâm. Chính vì vậy, cách diễn đạt thứ hai mà tôi dùng làm đầu đầu đề cho bài viết này không được đưa vào trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày và không được nhiều người biết đến.

~.~.~

Wittgenstein là một triết gia Áo sống vào nửa đầu thế kỷ 20. Ông có nhiều đóng góp quan trọng vào nền triết học đương thời, trong đó bao gồm cả đóng góp vào lĩnh vực triết học ngôn ngữ (philosophy of language). Ông được xem là một trong những triết gia xuất sắc của thế kỷ và được tạp chí Time đưa vào trong số 100 danh nhân thế giới thế kỷ 20.

Thú thật, tôi không đủ trình độ - mà cũng không có tham vọng – để thấu hiểu toàn bộ hệ thống ý tưởng của ông. Nhưng trong quá trình đọc sách triết, thỉng thoảng tôi cũng chống chọi được với cơn buồn ngủ và ráng vày vò đầu óc để tìm hiểu xem các nhà triết học đang muốn truyền bá điều gì đến những độc giả có số IQ thấp như tôi. Nhờ vậy, tôi học được một ý tưởng ngộ nghĩnh Wittgenstein dùng để giải thích vai trò của triết gia và bản chất của các vấn đề triết học phức tạp. Theo Wittgenstein, lý do tại sao các triết gia bao đời nay vẫn loay hoay chưa giải quyết được các bài toán triết học đã có từ thời cổ đại là vì những câu hỏi triết học mà họ nêu ra có thể nói là vô nghĩa. Theo ông, thông qua ngôn ngữ, các triết gia nêu lên những vấn đề to tát như vật chất (matter), ý thức (mind), tự do ý thức (free will), cái thiện, cái ác, v.v. mà không ý thức được rằng ngôn ngữ là một phần gắn chặt của cuộc sống và không thể tách rời ngôn ngữ ra khỏi những bối cảnh cụ thể của cuộc sống mà không làm mất đi ý nghĩa của ngôn ngữ. Khi dùng ngôn ngữ để nêu lên các vấn đề mang tính triết lý, các nhà triết học đã tách rời ngôn ngữ ra khỏi môi trường tự nhiên của nó và đưa nó vào một môi trường triết lý siêu hình, trong đó tất cả những đặc tính quen thuộc và cần thiết của ngôn ngữ biến mất.

Wittgenstein ví việc đưa ngôn ngữ vào trong một môi trường triết lý siêu hình cũng giống như việc đi trên vùng đất băng trơn không có sự ma sát (frictionless ice). Lý do cần thiết để tạo ra một môi trường như vậy là vì các nhà triết học cần tạo ra những điều kiện hoàn hảo để qua đó họ có thể áp dụng một ngôn ngữ hoàn hảo về logic và triết học để giải quyết tất cả những vấn đề triết học mà không phải chịu bất cứ ảnh hưởng “ma sát” nào của những hoạt động sinh sống hàng ngày của con người. Dĩ nhiên, chính vì không có sự hiện diện của những “ma sát với cuộc sống” mà ngôn ngữ triết học trở thành vô dụng và không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Ông mô tả ngôn ngữ triết học như “những bánh xe không thể quay,” “ngôn ngữ đi nghỉ mát,” hoặc “một vật dụng chỉ dùng để trang trí” (“idle wheels,” “language that goes on holiday,” a mere “ornament”). Để giải quyết những vấn đề do ngôn ngữ triết học gây ra, theo ông, các triết gia cần rời bỏ vùng băng trơn không ma sát và quay lại vùng đất xù xì (rough ground) của ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày.

Nói cách khác, Wittgenstein muốn chứng minh cho thấy các triết gia đã sai lầm ngay từ ban đầu khi nêu lên các vấn đề phức tạp trong triết học bằng cách không sử dụng ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày. Thay vì hoài công đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi triết học, theo Wittgenstein ta chỉ cần ý thức rằng chúng là hệ quả của việc sử dụng ngôn ngữ không có độ ma sát và gạt bỏ ngôn ngữ này ra khỏi lĩnh vực triết học. Điều thú vị trong giải pháp ông đưa ra là một khi đã vứt bỏ “ngôn ngữ đi nghỉ mát” thì tất cả những vấn đề triết học về sự sống-cái chết, thượng đế-con người, vật chất-ý thức, v.v. cũng tự nhiên biến mất. Ông viết: “the clarity we are aiming at is indeed complete clarity. But this simply means that the philosophical problems should completely disappear.”

Các nhà triết học loay hoay tìm cách giải quyết những câu hỏi triết học muôn thuở được ông ví như những con ruồi bay loanh quanh trong một cái chai và không tìm thấy đường ra. Cái chai ở đây chính là hệ thống khép kín của những khái niệm triết học, dùng chính nó làm hệ quy chiếu (self-referential system of thought). Wittgenstein tự giao cho mình trách nhiệm chỉ đường cho chú ruồi thoát khỏi cái chai (“shew the fly the way out of the fly-bottle”). Dĩ nhiên, cách đơn giản nhất để thoát khỏi cái chai là đập bể nó.

Để bạn có thể thấy rõ tầm quan trọng của bối cảnh đối với việc sử dụng ngôn ngữ và sự vô ích của việc dùng ngôn ngữ để giải quyết những vấn đề do ngôn ngữ tạo ra, tôi thử lấy một ví dụ đơn giản trong cuộc sống như sau. Hai chữ “đi bơi” trong tiếng Việt có lẽ ai cũng hiểu nhưng không phải ai cũng hiểu giống nhau vì ý nghĩa của nó phụ thuộc vào bối cảnh cuộc sống của người sử dụng. Một đứa trẻ sống ở thành phố sẽ hiểu đó là đi đến hồ bơi Kỳ Hòa hay một hồ bơi nào đó, vô phòng thay đồ, cởi đồ tây, mặc đồ bơi, đeo kiếng bơi vào (nếu có), đi cất đồ, đi tắm vòi nước trước khi bơi, và sau đó nhảy xuống hồ. Một đứa trẻ sống ở một vùng nông thôn cạnh một con sông sẽ hiểu “đi bơi” đơn giản là chiều chiều cởi trần đi ra sông, nhảy xuống sông tắm. Chấm hết. Đối với một đứa trẻ sống ở thành phố cũng như đứa trẻ sống ở nông thôn, cả hai đều hiểu “đi bơi” là gì mà không cần phải có người giải thích dài dòng. Nhưng nếu có một nhà triết học rảnh rỗi muốn đưa ra một định nghĩa hoàn hảo để giúp bất cứ ai cũng có thể hiểu được đi bơi là gì mà không cần phải đề cập đến những chi tiết dung tục, tầm thường của cuộc sống hàng ngày như cởi quần, cởi áo, hay cởi trần thì bạn có thể hình dung được sự rối rắm, phức tạp không cần thiết của những ngôn ngữ, khái niệm chung chung, trừu tượng mà ông/bà ta phải dùng để giải quyết câu hỏi nêu trên. Mà cũng chưa chắc đã giải quyết được vấn đề cho trọn vẹn. Thay câu hỏi “đi bơi là gì?” bằng câu hỏi “hạnh phúc là gì?” thì bạn có thể tưởng tượng được mức độ rối rắm, phức tạp sẽ gia tăng lên bao nhiêu lần.

~.~.~

Bối cảnh cụ thể của cuộc sống do đó đóng một vai trò quyết định trong việc hiểu và sử dụng đúng ngôn ngữ. Ví dụ như ta chỉ có thể hiểu đúng khái niệm “đi học” trong tiếng Việt nếu dùng nền văn hóa và bối cảnh cuộc sống Việt Nam làm hệ quy chiếu. Khi dịch khái niệm “đi học” sang hệ quy chiếu của Mỹ thành “go to school” để người Mỹ hiểu, thì hơn 50% ý nghĩa của nó đã bị thay đổi. Khi dịch khái niệm “hiếu thảo” sang tiếng Anh thành “filial piety,” theo tôi đoán nó đã mất đi 90% ý nghĩa gốc trong tiếng Việt và hơn 90% dân Mỹ chỉ có một khái niệm lờ mờ “filial piety” có ý nghĩa gì trong tiếng Anh và bao hàm những hành động, bổn phận gì của người con đối với cha mẹ. Sự khác biệt giữa hai hệ quy chiếu càng lớn thì khả năng để các thành viên hai bên có thể hiểu nhau càng nhỏ. Wittgenstein cho rằng “Nếu một con sư tử biết nói [tiếng Anh hay bất thứ tiếng nào khác], thì ta cũng không thể nào hiểu được ý nó muốn nói gì,” vì hệ quy chiếu của người và vật quá khác nhau.

Ngôn ngữ và văn hóa của một nước do đó cũng là một hệ thống tư duy khép kín dùng chính nó làm hệ quy chiếu. Chúng có vai trò không khác gì một cái chai giam hãm cách tư duy và phạm vi lựa chọn hành động của chúng ta. Những gì ta được phép và không được phép làm trong một nền văn hóa tạo thành một đường biên bao quanh tư duy của ta. Giống như ví dụ về quả trứng của Columbus, nếu như Columbus đã đập bể một đầu quả trứng để nó có thể đứng được, thì chúng ta cũng cần đập bể những khái niệm cứng nhắc trong văn hóa Việt Nam để mở rộng tầm nhìn và sự hiểu biết. Chẳng hạn, trong thời đại của internet, sách báo, phim ảnh nước ngoài tràn lan, khái niệm “không thầy đố mày làm nên” không còn giá trị tuyệt đối như trước. Giờ đây hệ thống giáo dục Việt Nam cần khuyến khích và cho phép học trò Việt Nam được tự do tìm tòi, suy nghĩ, nêu thắc mắc và tự học nhiều hơn là bám cứng vào lối học vẹt, học từ chương. Khá nhiều vấn đề phức tạp trong xã hội hiện đại, cả ở Việt nam lẫn phương Tây, sẽ trở thành đơn giản và dễ giải quyết hơn nếu con người có thể đập bể cái chai đang giam hãm tư duy của họ. Tuy nhiên, việc đập bể cái chai không dễ thực hiện và có thể bị gán ghép cho là một hành vi nguy hiểm cho xã hội. Đơn giản hơn, bạn chỉ cần học cách đi qua đi lại giữa những cái chai khác nhau. Số chai bạn có thể di chuyển qua lại càng nhiều, khả năng tư duy và phạm vi tự do lựa chọn của bạn càng lớn.

Cách đây 2 năm, lúc đang viết luận văn thạc sĩ của mình về đề tài chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ và Việt Nam, tôi mô tả tệ nạn hối lộ, tham nhũng như là một vấn đề về đạo đức. Ông thầy hướng dẫn nhận xét, không nên xem chúng như là một vấn đề thiếu sót về đạo đức và tìm cách giải quyết bằng cách cổ vũ rèn luyện, nâng cao đạo đức. Hối lộ và tham nhũng tồn tại ở mọi nước, trong mọi hệ thống chính trị. Điều quan trọng là phải thiết lập các cơ chế và thể chế thích hợp để giới hạn tệ nạn hối lộ và tham nhũng. Đó là lần đầu tiên tôi được biết ta có thể giải quyết những hành vi vô đạo đức như tham nhũng và ăn hối lộ không phải bằng cách đào tạo cho xã hội những công dân có đạo đức mà bằng cách thiết lập các cơ chế để ngăn ngừa và trừng phạt các cá nhân thực hiện hành vi vô đạo đức. Sau buổi nói chuyện hôm đó tôi có cảm giác như ông thầy đã nắm tóc, kéo đầu tôi ra khỏi cái chai “Văn hoá Khổng giáo Việt Nam” sang một cái chai “văn hoá Mỹ - Châu Âu” để tôi có dịp làm quen với một lối tư duy mới. [Nghĩ lại, thấy may mắn là mình đã không mím môi, mím lợi, cố bám tay, đạp chân vào thành chai để được rơi tọt trở lại môi trường đáy chai quen thuộc.] Ngược lại, tôi đoán ông thầy hướng dẫn của mình trong thời gian sống ở Hàn Quốc cũng đã từng bị người khác nắm tóc, kéo đầu lôi ra khỏi cái chai “Mỹ-châu Âu” để học hỏi những cái hay trong cái chai “văn hóa Khổng giáo Hàn Quốc.”

Dĩ nhiên, sau khi sống trong cái chai “Khổng giáo Việt Nam” hơn 30 năm và đã quá quen thuộc với môi trường trong đó, tôi không thể nào rời bỏ hẳn nó để chuyển sang sống trong một cái chai nào khác. Nhưng từ đó đến giờ tôi vẫn cố gắng đi qua đi lại giữa hai cái chai. Vẫn cố tìm tòi xem bên trong cái chai “văn hoá Mỹ - Châu Âu” có gì đẹp và hay, có gì đáng học hỏi để đem về áp dụng trong cái chai văn hóa Việt Nam. Như tôi đã có dịp trình bày, tôi không bác bỏ rèn luyện đạo đức. Xã hội và con người không thể tồn tại nếu không có đạo đức. Việt Nam có thể kết hợp cả hai đặc điểm rèn luyện đạo đức và thiết lập luật pháp nghiêm minh, chứ không nhất thiết chỉ chú trọng rèn luyện đạo đức mà bỏ qua việc phát triển hệ thống luật pháp như hiện nay, hoặc phụ thuộc quá nhiều vào bàn tay sắt của luật pháp mà sao lãng việc rèn luyện đạo đức con người như trong xã hội Mỹ. Một xã hội tốt đẹp đến mức hoàn hảo là xã hội tiếp thu và trộn lẫn những gì tinh túy nhất của phương đông và phương tây thành một tổng thể hợp nhất. Văn minh châu Âu không thể có được ngày hôm nay nếu không có sự đóng góp của các nền văn minh Trung Quốc, Hy Lạp, Hồi Giáo, Ấn Độ, văn minh người da đỏ Nam Mỹ, v.v. Văn minh nhân loại là như vậy. Nó kế thừa và vay mượn lẫn nhau, giao thoa với nhau. Tất cả chúng ta đều bơi trong cùng một đại dương. Những luồn chảy văn hóa khác nhau giúp cho biển văn hóa của nhân loại không bị ứ đọng và tù hãm. Nơi nào có những luồn văn hóa gặp gỡ và giao thoa, nơi đó có môi trường sống sinh tươi, đa dạng và phong phú. Ta cần học cách di chuyển giữa những chiếc chai!