New Blog Address
Tôi đã chuyển địa chỉ blog sang chỗ này http://hoangtq.wordpress.com/
Trang blog này thiếu những chức năng cho phép tôi phân loại bài vở theo những chủ đề khác nhau để người đọc dễ theo dõi và chọn bài.
Mind is a terrible thing to have. Don't use it. No-Mind is the highest state of mind.
Tôi đã chuyển địa chỉ blog sang chỗ này http://hoangtq.wordpress.com/
The New York Times là tờ nhật báo có uy tín nhất và có số độc giả thuộc tầng lớp trí thức nhiều nhất ở Mỹ. Nhưng chính vì nhắm vào đối tượng độc giả trí thức nên nó không phải là tờ báo có số lượng phát hành nhiều nhất. Xét về số lượng phát hành, tờ NYT đứng thứ 3, sau hai tờ USA Today và Wall Street Journal.
Để khuyến khích sinh viên đại học đọc báo cập nhật tin tức đồng thời nâng cao kỹ năng đọc hiểu, hai tờ New York Times và USA Today cung cấp cho sinh viên các trường đại học Mỹ các số báo của nó miễn phí. Ở trường tôi, tại những địa điểm được nhiều sinh viên qua lại như trước thư viện hay gần khu vực canteen đều có một hộp báo, bên trong là hai chồng báo, USA Today một bên và NY Times một bên. Sinh viên nào muốn đọc phải dùng thẻ sinh viên của mình để mở hộp lấy báo. Cứ đi ngang các thùng báo này khoảng 12 giờ trưa là tôi thấy số báo NY Times hết sạch trong khi số báo của tờ USA Today vẫn luôn còn. Vì tờ USA Today thuộc dạng báo khá là “lá cải”, màu sắc lòe loẹt và có nhiều bài tường thuật về các ngôi sao điện ảnh, ca nhạc, thể thao nên không được giới sinh viên ưa chuộng. Đối tượng đọc tờ USA Today chủ yếu là sinh viên undergrad. Trí tuệ hơn, bọn sinh viên grad tụi tôi thường chỉ đọc tờ NYT.
Tờ NY Times gồm có 2 phần, nửa phần đầu dành đăng các thông tin quốc tế và nửa sau dành cho thông tin nước Mỹ. Hai trang kế cuối là nơi đăng các bài xã luận, ý kiến bạn đọc và các bài phân tích, phê bình (opinion-editorial) của những nhà báo kỳ cựu và uy tín của tờ báo. Gặp lúc bận rộn, tôi thường xem lướt qua các mục thông tin quốc tế và thông tin nước Mỹ nhưng không bao giờ bỏ qua các bài op-ed. Mặc dù đã biết những người phụ trách chuyên mục op-ed (columnist) đều là những nhà báo và học giả sừng sỏ (như Paul Krugman, giáo sư kinh tế trường Princeton), tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên trước chất lượng của các bài op-ed. Với tổng số columnist là 7 người, trung bình mỗi một columnist phải viết 2 bài/tuần, vậy mà chất lượng các bài viết vẫn được duy trì ở mức độ rất đáng nể. Hầu như trong tất cả các số báo tôi đều học được nhiều ý tưởng hay và sâu sắc qua những bài op-ed này.
Tôi thử giới thiệu dưới đây một bài op-ed của Nicholas D. Kristof đăng trên NYT ngày
Nicholas D. Kristof
The New York Times
Cuối cùng, chúng ta cũng bắt đầu hiểu được muốn khích động Tổng thống Bush, những nhà lãnh đạo chính trị và công chúng Mỹ để họ ra tay can thiệp vào nạn diệt chủng ở Sudan thì ta phải làm gì: cần một chú cún con với cặp mắt to và đôi tai mượt.
Đó là bài học rút ra được từ một loạt các công trình nghiên cứu tâm lý học được thực hiện nhằm tìm hiểu tại sao những con người tốt bụng và có lương tâm lại không động lòng trước nạn diệt chủng hay nạn đói xảy ra trên thế giới. Rất nhiều lần chúng ta đã từng chứng kiến lương tâm con người không hề cắn rứt trước sự sau khổ của hàng trăm ngàn người nhưng lại xúc động và đau khổ chỉ vì một đứa trẻ (hay một chú cún con) đang gặp nạn.
Trong một thí nghiệm, các nhà tâm lý học yêu cầu những người dân thường đóng góp $5 để cứu giúp những nạn nhân đói khát ở nước ngoài qua 3 tình huống sau: (1) đóng tiền cứu giúp một cô bé 7 tuổi tên Rokia sống ở Mali; (2) đóng tiền cứu giúp 21 triệu người dân châu Phi đang đói; (3) đóng tiền cứu giúp cô bé Rokia nhưng lần này cô bé Rokia không phải là một cá nhân riêng lẽ mà là một trong số hàng triệu người đói khát trên toàn cầu.
Kết quả không có gì ngạc nhiên: những người tham gia ít sẵn lòng bỏ tiền ra giúp hàng triệu những con người đói khát mà họ không biết là ai, tên gì, sống ở đâu hơn là giúp cô bé Rokia 7 tuổi sống ở Mali. Nhưng trong trường hợp (3) mặc dù biết rõ tên tuổi, danh tánh của người cần giúp đỡ nhưng họ cũng không sẵn lòng giúp đỡ vì trong trường hợp này sự đau khổ của Rokia được xem là một phần của một vấn nạn to lớn, phức tạp hơn trên toàn cầu.
Có nhiều bằng chứng thuyết phục cho thấy con người phản ứng trước nỗi khổ của một cá nhân hơn là của một tập thể. […] Thậm chí một con vật dễ thương nào đó cũng có thể gây ra một phản ứng tương tự nơi con người. Một chú chó bị mắc kẹt trên một chiếc tàu làm khuấy động con tim của bao dân Mỹ đến mức $48,000 tiền túi riêng đã được quyên góp để cứu chú chó. Sau khi tôi đến thăm Darfur vào năm 2004, tôi hoàn toàn không hiểu được cảm xúc của công chúng Mỹ khi nỗ lực cứu một chú diều hâu đuôi đỏ, tên Pale Male, vì chú bị đuổi ra khỏi tổ của mình ở Fifth Avenue ở New York. Một con diều hâu không nơi nương tựa có thể khiến công chúng Mỹ phẫn nộ nhiều hơn là 2 triệu người
Những nhà hoạt động giúp người nghèo thường thích trích dẫn con số 30,000 trẻ em trên thế giới tử vong hàng ngày do hậu quả của nghèo, đói vì họ cho rằng con số này sẽ là cú sốc khiến nhân loại phải có phản ứng. Nhưng ngược với sự mong đợi của họ, con số nạn nhân càng lớn, số người động lòng trắc ẩn càng ít.
Trong một thí nghiệm tâm lý học khác, 1 nhóm người được mời gọi gây quỹ $300,000 để trang trải viện phí cứu sống một em bé và 1 nhóm khác cũng có mục tiêu tương tự nhưng để cứu sống tính mạng của 8 em bé. Kết quả: tiền đóng góp cứu 1 em bé nhiều gấp đôi số tiền quyên được để cứu 8 em bé.
“Khả năng cảm xúc của chúng ta có giới hạn,” theo lời giáo sư Paul Slovic thuộc ĐH
[…] Nhưng thật tình mà nói, sau 4 năm chứng kiến Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, Toà án Tội phạm Quốc tế (International Criminal Court) và Công ước Ngăn ngừa và Trừng phạt Tội ác Diệt chủng (Genocide Convention) không có mấy hiệu lực trước vấn nạn ở Darfur, tôi hoài nghi không biết liệu khả năng duy lý của con người (human rationality) và luật pháp quốc tế có thể làm được gì nếu không có được sự ủng hộ của công luận.
Có một thí nghiệm chứng minh cho thấy giới hạn của khả năng duy lý của con người. Những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu đóng góp tiền giúp người nghèo nhưng trước khi đóng góp họ được chia làm 2 nhóm. Một nhóm được yêu cầu thảo luận về đề tài trẻ em (để khơi dậy cảm xúc của họ) và nhóm kia được yêu cầu thực hiện các phép tính toán học (để khơi dậy khía cạnh duy lý). Kết quả: những người làm toán quyên góp ít tiền hơn.
Có lẽ cái mà chúng ta cần không phải là nhiều luật pháp tốt hơn (better laws) mà là nhiều lương tâm biết xúc động hơn— những lương tâm bị cắn rứt vì hình ảnh một chú cún con tên
Nếu như Tổng thống Bush và công chúng toàn cầu không động lòng trước thảm cảnh chết chóc của hàng trăm ngàn người đồng loại, có lẽ hy vọng sót lại cuối cùng của chúng ta là lương tâm chúng ta sẽ bừng tỉnh trước cảnh một chú chó con đang gặp nạn.
Mark Ashwill, hiện đang điều hành trung tâm IIE tại Hà Nội từng là giảng viên khoa Giáo dục Tổng quát tại trường Ðại học bang
Câu hỏi thứ 2 thì quá rõ ràng, là người Việt chẳng lẽ tôi lại không quan tâm muốn biết học sinh Mỹ học những gì về chiến tranh Việt
Câu thứ 3 là vì tôi được học và đọc một số sách liên quan đến văn hóa người da đỏ. (Hôm nào siêng tôi sẽ trình bày một quan điểm đúng đắn hơn về văn hóa người da đỏ. Vào thời điểm Columbus đến châu Mỹ, từ “man rợ” hay “mọi rợ” mà người người châu Âu da trắng dùng để mô tả ngừơi da đỏ có lẽ áp dụng cho chính họ thì thích hợp hơn).
Sau một thời gian dài tưởng không đi tới đâu, cuối cùng anh bạn GS Computer Science ở trường tôi cũng đã tập hợp được thêm 4 người nữa tham gia xây dựng trang blog bàn luận, nghiên cứu các vấn đề kinh tế-xã hội. Hiện tại trang blog đang được xây dựng và chúng tôi đã upload lên một số các bài viết cũ của mình. Các bạn có thể ghé qua xem trang blog ở địa chỉ này:
~.~.~
Báo IHT online ngày 3-1-2007 có đăng bài "For these consumers, a new year of nothing new". Đại khái bài báo kể lại câu chuyện về một nhóm 10 người bạn họp mặt nhau ăn tối. Vốn có ý thức bảo vệ môi trường cao, sau hồi trà dư tửu hậu, nhóm đi đến một quyết định táo bạo: trong toàn năm 2006 nhóm tuyên thệ sẽ không mua sắm thêm bất cứ vật dụng gia dụng gì mới trong gia đình. Tất nhiên những mặt hàng hóa thiết yếu như thực phẩm, các vật dụng liên quan đến nhu cầu vệ sinh, thân thể, sức khỏe, thuộc diện ngoại lệ và không chịu sự ràng buộc nói trên.
Chúng ta vẫn thường xuyên nghe đi nghe lại luận đề “Con người là động vật biết tư duy”, rằng sự khác biệt giữa người và vật là ở chỗ con người có khả năng suy nghĩ và giải quyết vấn đề, còn con vật thì không. Chúng ta đã nghe lập luận này quá nhiều lần đến nỗi chúng ta tin vào sự đúng đắng tuyệt đối của nó và chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện tìm hiểu xem liệu bản thân ta hay những người xung quanh có thật sự suy nghĩ hay không. William Golding, nhà văn người Anh đoạt giải thưởng Nobel văn chương năm 1983, lại không hoàn toàn tin như vậy.
Trong một bài luận viết năm 1961 có tựa đề “Tư duy là sở thích của tôi”, ông phân loại tư duy của con người thành 3 cấp độ. Những người thuộc cấp thấp nhất, cấp độ 3, là những người chẳng hề dùng đến đầu óc để tư duy và họ chiếm 90% dân số nước Anh (ta có thể mở rộng ra cho 90% dân số thế giới). Cái gọi là tư duy đối với 9/10 dân Anh chẳng qua chỉ là một tập hợp những “thành kiến trong vô thức, sự thiếu hiểu biết và thói đạo đức giả” (unconscious prejudice, ignorance and hypocrisy). Để minh họa, Golding đưa ra ví dụ về một ông thầy cấp 2 của mình, một người tự nhận là có nhiều tư duy và nhiều lần khẳng định hùng hồn trước đám học trò về một cuộc sống lành mạnh về thể chất và tinh thần, về đạo đức và nghĩa vụ. Ấy vậy mà bọn học trò ai cũng biết ông là kẻ bợm rượu và mỗi khi đang giảng bài nếu thoáng thấy có bóng dáng một chiếc váy đi ngang qua cửa số là ông quay đầu nhìn như muốn sái cả cổ. Một vài ví dụ khác Golding đưa ra để minh họa cho hành vi và lối tư duy của những người tư duy cấp 3: đám đông la hét mừng rỡ đón chào vua hay nữ hoàng Anh đi ngang qua để thể hiện lòng yêu nước của mình, một thủ tướng Anh ra quyết định bỏ tù Nehru và Gandhi rồi tuyên bố làm như vậy là có lợi cho dân Ấn, hay các chính trị gia Mỹ câu trước tuyên bố hùng hồn về hoà bình thế giới, câu sau lại từ chối gia nhập Liên hiệp các Quốc gia [League of Nations, tiền thân của Liện Hiệp Quốc hiện nay]. Theo Golding, “tư duy” ở mức độ này nghiêng về cảm giác hay cảm xúc (feeling) nhiều hơn là lý trí.
Ở cấp độ cao hơn một bậc, những người tư duy cấp 2 khám phá ra rằng xã hội loài người chứa đầy những mâu thuẫn và những điều trái ngược nhau. Những người lên được tư duy cấp 2 là những người đứng tách biệt, lùi mình khỏi đám đông. Họ mở to đôi mắt và giong đôi tai để quan sát, tiếp thu, và phân tích. Người tư duy cấp độ 2 có khả năng đạp đổ nhưng không xây dựng được một kiến trúc mới thay thế cho cái họ đã phá hủy. Họ có thể đứng bên ngoài chế diễu đám đông cuồng nhiệt đang bày tỏ lòng hâm mộ trước các siêu sao điện ảnh và ca nhạc, hay chế diễu sự mâu thuẫn trong hành vi của những con chiên ngoan đạo một mặt tuyên bố sẵn sàng chìa má còn lại cho người khác tát nhưng mặt khác sẵn sàng cầm gươm, giáo tham gia thánh chiến. Nhưng ngoài việc chế diễu, vạch trần, đạp đổ các quan điểm mang tính thành kiến, sai lầm và lạc hậu, tư duy cấp 2 không đưa ra được một giải pháp tích cực nào thay thế.
Vạch ra những điểm yếu kém của các thế hệ đi trước có thể làm thoả mãn cái “tôi” của những người tư duy cấp 2 nhưng không mang lại cho họ cảm giác yên ổn. Họ giống như những người bơi giỏi, có thể bơi ra xa bờ để lại những người khác ở đằng sau. Nhưng ở xa bờ, mực nước vượt quá đầu họ và ở đó họ chỉ có đơn độc một mình. Pontius Pilate của La Mã cổ đại là ví dụ điển hình cho tư duy cấp 2. Ông đã từng phát biểu, “Sự thật là gì? Nó chỉ là cái mà người ta dùng để chấm dứt tranh luận thay vì để khởi đầu sự tranh luận”. Khác với người tư duy ở cấp độ 2, sau khi đặt câu hỏi “Sự thật là gì?” người tư duy đẳng cấp 1 sẽ bắt tay đi tìm kiếm và đưa ra câu trả lời thích đáng.
Dĩ nhiên, những người người tư duy đẳng cấp 1 là cực kỳ hiếm. Golding đưa ra Einstein làm một ví dụ. Ví dụ khác ông đưa ra chính là … bản thân ông, Golding. Ông giải thích rằng khi đạt đến đỉnh cao tư duy cấp độ 1 “tất cả các hệ thống chính trị, tôn giáo, tập tục xã hội, trung thành với truyền thống, quốc gia đều bị giựt đổ cho té nhào, như những trái táo thối rơi khỏi cành.” Ở đẳng cấp này, Golding tự xây dựng cho mình một hệ thống đạo đức và cấu trúc xã hội rất chặt chẽ và hoàn toàn lôgic, trong đó ông “gạt bỏ một loạt những thứ vặt vãnh, vô bổ như chính phủ, các tập đoàn kinh doanh lớn, quân đội, hôn nhân ….” Dĩ nhiên, ông khám phá được rằng đa số loài người hài lòng với cuộc sống mà họ đang có và chẳng ai hồ hởi muốn tham gia xây dựng cái thế giới “hoàn hảo” do ông nghĩ ra.
~.~.~
Pascal có câu nói nổi tiếng, “Con người là cây sậy biết tư duy”. Vậy Pascal đúng hay Golding đúng? Con người có thật sự biết tư duy?
Thật ra, nếu đọc kỹ toàn bộ đoạn văn Pascal viết và hiểu đúng những gì Golding trình bày, ta sẽ nhận thấy quan điểm của Pascal và Golding không đối chọi nhau. Pascal viết,
“Con người chỉ là một cây sậy, một loại cây yếu ớt nhất trong thế giới tự nhiên, nhưng họ là một cây sậy biết suy nghĩ … Một hơi nước, một giọt nước cũng đủ để giết chết họ. Nhưng nếu có bị vũ trụ nghiền nát, thì sự hiện diện của con người vẫn còn cao thượng hơn thế lực đã giết chết họ, bởi vì con người ý thức được cái chết của mình và biết được ưu thế của vũ trụ, trong khi đó vũ trụ là vô tri, vô giác và không hề biết được điều này. Vì vậy tất cả sự tôn nghiêm của con người nằm ở chỗ họ biết tư duy. Chúng ta cần nâng cao vị trí của mình thông qua tư duy, chứ không thông qua chiều không gian và thời gian vì [chúng là vô hạn và] chúng ta không thể lấp đầy không gian và thời gian được. Vì vậy chúng ta hãy nỗ lực tư duy cho tốt [to think well]; đây chính là nguyên tắc của đạo đức.” (Penseés, VI: 347)
Pascal không kêu gọi con người “hãy tư duy đi”, vì nói vậy chẳng khác nào buộc tội họ là những sinh vật không biết tư duy. Golding cũng không nói rằng loài người không biết tư duy. Ngược lại, ông muốn chỉ ra cho thấy 90% loài người tin và chấp nhận một cách mù quáng những hành vi, tập tục, thể chế cổ hủ và tiêu cực trong xã hội. Pascal kêu gọi mọi người hãy “tư duy cho tốt” và xem đó là “nguyên tắc của đạo đức”, điều này cũng phù hợp với quan điểm của Golding khi ông đánh giá cao những cá nhân dám vươn mình bước lên trên đám đông, đạp đổ những “thành kiến, sự thiếu hiểu biết và thói đạo đức giả” và từ đó đề xướng ra những con đường đi mới.
~.~.~
Câu chuyện về ba ông thầy của tôi.
Câu chuyện thứ nhất: ông thầy khoa Nhân chủng học. Vừa về hưu năm ngoái vì đã 70 tuổi. Mấy câu cửa miệng ông thích trích dẫn: “People don’t think, they don’t want to think, because thinking is painful.” Và “We have culture to help us not to think”.
Câu chuyện thứ hai: ông thầy khoa Sử. Nhận xét về cuốn “Democracy in America” do một tác giả người Pháp, Tocqueville, viết vào giữa thế kỷ 19 sau khi đi vòng quanh nước Mỹ trong 9 tháng, một cuốn sách kinh điển về xã hội-văn hóa Mỹ mà cho đến nay sau hơn 150 năm vẫn chưa một tác giả Mỹ nào vượt qua được, ông nói: “Culture is something we don’t think about because we all take it for granted.” Rồi ông nói tiếp, đại khái một người nước ngoài từ một nền văn hóa khác sẽ dễ dàng nhận thấy những gì mà những người sống bên trong nền văn hóa không nhìn thấy. (Trong môt thoáng tích tắt, ông gieo vào đầu tôi ảo ưởng mình có thể trở thành một Tocqueville thứ hai :-).
Câu chuyện thứ ba: ông thầy gốc da đỏ dạy khoa Hoa Kỳ Học. Sau khi cho học trò xem xong một phim tài liệu mà bây giờ tôi không nhớ là về đề tài gì, ông chỉ bình luận một câu ngắn gọn, đại khái là: “It’s traditions that keep people from thinking.”
~.~.~
Cách đây 2 năm, có một anh giáo viên đại học ở Sài Gòn được học bổng qua chỗ tôi du học. Có một lần ngồi tán phét với nhau, hắn ta thú nhận từ nhỏ đến lớn ở VN hắn chưa bao giờ nghĩ rằng nữ giới thông minh như nam giới hoặc nữ giới có khả năng trí óc ngang bằng với nam giới. Chỉ khi đặt chân sang Mỹ du học hắn mới bắt đầu thay đổi quan niệm này. Tôi quên không hỏi điều gì đã gây ra sự thay đổi và lý do nào trong hơn hai mươi mấy năm trời hắn tin rằng phụ nữ là thua kém nam giới về khả năng trí tuệ và lãnh đạo. Tôi chỉ có thể suy đoán rằng đó là sản phẩm của một nền văn hóa Khổng giáo với những thành kiến phân biệt đối xử “trọng nam, khinh nữ” như “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “nam thượng nữ hạ”, hay “nữ nhân ngoại tộc”.
Văn hóa là những gì bao bọc, vây quanh ta hàng ngày. Chúng là một phần quen thuộc của cuộc sống đến nỗi ta chấp nhận và xem sự hiện diện của chúng là đương nhiên. Ít có ai bổng nhiên đi đặt câu hỏi: những điều bấy lâu nay ta vẫn làm có đúng không? có phải sinh con trai là tốt hơn sinh con gái? tại sao con trai lại tốt hơn con gái? Tôi đã thử vật lộn tìm câu trả lời cho những câu hỏi trên dựa vào hiểu biết ít ỏi của mình về xã hội VN và cho rằng có 2 trường hợp có thể xảy ra. Trường hợp 1, người được hỏi những câu hỏi trên sẽ đưa ra những câu trả lời rất “củ chuối” đại loại như “vì xã hội/ông bà ta trước nay vẫn quan niệm vậy”, hay “sinh con trai để nối dõi tông đường” hoặc “vì con trai sẽ phụng dưỡng bố mẹ khi về già, còn con gái thì phải đi lấy chồng và chỉ biết lo cho chồng, con và gia đình chồng”. Đối với những người trả lời kiểu này này, nếu bị vặn hỏi tiếp, họ sẽ không thể giải thích được con gái và con trai khác nhau chỗ nào, vì sao con gái không thể nối dõi tông đường, và vì sao có những trường hợp con gái đi lấy chồng không thể quay lại chăm sóc cho cha mẹ mình. (Dĩ nhiên, con trai có bao giờ chăm sóc cho cha mẹ bao giờ, chúng lấy vợ và bắt vợ phải chăm sóc cho mẹ mình. Đó chẳng qua chỉ là một hình thức trao đổi “hàng hóa con người” trá hình: đổi con gái mình lấy con gái người khác về làm nô lệ trong nhà. Nếu không có con gái thì coi như lời to.)
Khá hơn một chút là những câu trả lời như “vì con trai dễ đạt được công danh sự nghiệp, mang lại vinh dự cho gia đình”, “vì con trai kiếm được nhiều tiền cho gia đình hơn con gái”, hoặc “vì con trai đóng góp được nhiều ích lợi cho xã hội hơn con gái”. Với những người này, việc giải thích để họ hiểu tại sao lại có những hiện tượng nam-giỏi-hơn-nữ sẽ mất khá nhiều thời gian. Họ cần phân biệt được sự khác biệt giữa nam và nữ do thiên nhiên tạo ra và sự khác biệt giữa nam và nữ do con người tạo ra.
Blog này có tên là no-mind là vì vậy. Đôi khi điểm xuất phát của một người thuộc dạng no-mind lại có nhiều ưu thế hơn những người chứa đựng quá nhiều nhận thức và thành kiến sai lầm trong đầu. Tháo gỡ những nhận thức và thành kiến sai lầm là một quá trình thật không đơn giản chút nào.
~.~.~
Phụ chú:
1. Trong bài viết của mình, Golding chỉ đề cập đến Einstein là người có tư duy ở đẳng cấp 1. Lẽ ra ông còn có thể kể tên ra một số nhân vật lịch sử khác ở châu Á như Khổng Tử, Phật Thích Ca, Gandhi, v.v. vì đây là những nhân vật đã để lại cho nhân loại một mô hình xã hội hoặc một triết lý sống gần như hoàn toàn tách rời khỏi những truyền thống đi trước và phần nào giải quyết được những vấn đề nhức nhối vào thời đó.
2. Nếu bạn đọc thấy trên blog này có quá nhiều ý kiến chê bai, chỉ trích nhưng lại thiếu ý kiến đóng góp, bạn phải hiểu rằng tôi đang mon men trèo các nấc thang để bước lên tầng 2 của toà nhà tư duy. Nói một cách khác, tôi chỉ có thể cố gắng đập phá cái chai để chui ra khỏi nó, nhưng chưa biết làm cách nào tạo ra được một cái chai khác to và đẹp hơn. “Đập phá” ở đây mang nghĩa bóng, ám chỉ đến sự thay đổi trong nhận thức về tư duy thông qua giáo dục, hy vọng nó sẽ dẫn đến thay đổi về hành vi và tập tục xã hội. Tôi hoàn toàn ý thức được tác hại nguy hiểm của việc “đập phá cái cũ xây dựng cái mới” và hoàn toàn không chủ trương dùng bạo lực.
3. "Man can alter his life by altering his thinking" (William James). Vấn đề là bằng cách nào chúng ta có thể thay đổi được cách tư duy của mình? Ông bà ta đã có sẵn câu trả lời: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn.” [Câu này được dịch sang tiếng Anh nghe rất hay: Leave the village for a day and come back with a basketful of wisdom.] Nếu đi từ Huế vô Sài Gòn, ta sẽ học được nhiều điều mới mẻ và tư duy sẽ có vài chuyển biến, mặc dù vẫn còn trong phạm vi tư duy người Việt. Nếu đi từ Á qua Âu, chắc chắn sẽ có những thay đổi trong nếp tư duy, vượt qua cái khung văn hóa Việt. Ở đây tôi không hề có ý cổ suý cho việc bài các, chê bai, đạp đổ văn hóa Việt để trở thành một người châu Âu hay người Mỹ trăm phần trăm. Trong phần viết về “tư duy trong-cái-chai”, tôi đã nói rõ một thế giới hoàn hảo là thế giới kết hợp cả những cái hay của Á và Âu. Dĩ nhiên, câu hỏi cuối cùng là ta có làm được vậy không? Hay “Đông là Đông/Tây là Tây/Cả hai sẽ chẳng bao giờ gặp/hiểu được nhau”?
4. Vậy còn những người không có cơ hội đi đây đi đó? Họ cần đọc nhiều để phát triển óc tò mò và trí tưởng tượng của mình. Trí tưởng tượng càng phong phú, đầu óc càng ham học hỏi thì càng dễ tiếp nhận những kiến thức mới và mở rộng sự hiểu biết. [The man of prejudice is, a fortiori, a man of limited mental vision - Webster Dictionary.]
Có một câu hỏi mà dân Mỹ rất tò mò muốn biết bọn sinh viên quốc tế trả lời ra sao, đó là: Mày có dự định ở lại Mỹ sau khi tốt nghiệp không? Có đứa tế nhị hơn thì sửa đổi câu hỏi lại một chút thành: “Mày định làm gì sau khi tốt nghiệp?” Tính từ đó đến giờ, tôi đã phải trả lời cho câu hỏi này cũng gần một chục lần.
Sự hoang mang này nằm yên lặng, tiềm ẩn dưới bề mặt của lý trí, nhưng giống như một lớp bùn mỏng nằm dưới đáy hồ, chỉ cần có chút khuấy động [bởi sự hiện diện của một người nước ngoài] chúng sẽ bị xáo trộn và cuốn lên bề mặt, vụt thành câu hỏi: “Mày có dự định ở lại Mỹ sau khi tốt nghiệp?” Câu trả lời “Có” hay ít ra là một cách thể hiện tương đương nào đó sẽ xóa tan mối hoài nghi trong lòng người hỏi và khẳng định với họ tầm quan trọng không gì thay thế được của cuộc sống kinh tế sung túc ở Mỹ.
Tất nhiên còn cả lô, cả lố những yếu tố khác mà nói ra chưa chắc
Dù sao, đó là một câu hỏi không có câu trả lời cố định, không dành riêng cho bất cứ ai.
~.~.~
Cuộc sống ở Mỹ đối với những người nước ngoài thật không dễ dàng chút nào. Đối với những ai qua Mỹ khi còn ở lứa tuổi học trò, giai đoạn chuyển tiếp và hội nhập sẽ dễ dàng và tự nhiên hơn. Đối với những người đã trên tuổi hai mươi mấy, đi sang Mỹ với gánh nặng hành lý văn hóa bản địa trên vai, việc sửa đổi hành vi, thói quen cư xử, nếp suy nghĩ và học cách diễn đạt qua một ngôn ngữ mới là cả một quá trình đầy thách thức. Đầu óc họ trong giai đoạn đầu ở xứ lạ vì vậy luôn trong tình trạng “đi đi về về” giữa hai nền văn hóa. So sánh, đối chiếu giữa hai nền văn hóa là không điều thể tránh khỏi với họ, nó là hành động thuộc phạm vi tiềm thức, vượt qua tầm kiểm soát của bản thân. Chính vì vậy họ lại là những người hiểu biết và có cái nhìn sâu sắc về xã hội Mỹ. Bài viết dưới đây có tựa đề khá bi quan “Unhappy in
~.~.~
Little
Can we call her Aparna? She is about to open up a vein and show you how she bleeds - but she's not about to tell you her real name. _She is nameless, faceless. But her story is partly yours and mine, of every immigrant who left some place to arrive some place else. She prefers to remain anonymous. Yet ask her about her life in
She is unhappy in
[...] The colors seemed to have been drained out of her life. Says Aparna, "The small pleasures of life I used to experience in
[…] "Initially it was very depressing, because you miss your family and the whole culture is different. … The cultural difference is the biggest thing. It's tough to blend in with the people here. You may think you have a green card, you have citizenship, but you're just not amongst them. They still look at you as different."
[…] "I think each and every individual is here to make money. Personally if given a choice, each one of us would be there and not here. So I guess each one of us is compromising and trying to adjust."
[…] She acknowledges that Indian communities are growing in
[…] She feels in
The only thing she appreciates about
[…] Well-wishers point out to her the glittering wonders of
Finally, what is the green card really worth? Aparna has seen people who have been unable to attend the last rites of their beloved parents, because they did not want to jeopardize their chances of getting this little piece of paper.
She says, her voice breaking: "People tell me I'm getting emotional. Yes, sure I am. If you cannot be with your dying parent, then what is life all about? They invest all their love, time and effort in bringing you up and you cannot be there for that final goodbye? When the child is not there, what's the point?"
Shattered Dreams
Partha Banerjee can certainly tell you a thing or two about being unhappy in
His life in Southern and Central
***
It's miserable. If you have no job, you are ill or have some health problem, then that's the time you feel more isolated, more lonely. And that's the time you wish that you hadn't come to this country."
[…] Following a stint as a TV producer, he chucked it all to become a full-time advocate with NICE, doing grass-roots work with immigrants of all races and helping them in their day to day struggles.
And in taking a pay-cut and leaving academia and corporate
Daily he sees the ugly underbelly of the American Dream as he fights for new immigrants, people whose dreams are completely broken. There are battered women who have no way of going back home; construction workers who are old and still struggling on scaffoldings for a pittance; domestic servants who are not even given a mattress to sleep on; the hundreds of men with Muslim names or brown faces who have faced a hard new America after 9/11; random victims of accidents, circumstances or crime. Being with them and providing them with some kind of hope and solidarity gives him satisfaction - and yes, makes him happy.
"There are so many stories of unhappy people," he says. He recalls a Bangladeshi couple, a doctor and a pharmacist, who won the Immigrant Diversity Visa lottery and came to this country to make it big. "Recently I saw him working at a gas station, pumping gas at
***
[…] Many would be immigrants confuse the real
It is often a rude awakening for a new immigrant to find himself in a rundown seedy apartment crawling with roaches and rats, counting pennies and struggling to hold on to a miserable job that he hates, if only for survival.
The faces of indifferent strangers greet him in the corridors and on the streets. At that moment, the string bed in the open courtyard of his village home, surrounded by loved ones and a pot of saag cooking on the family hearth, seems incredibly inviting. This too is somebody's American Dream gone awry.
Tôi không biết trong tiếng Việt khi muốn động viên một ai đó cần có suy nghĩ sáng tạo, không đi theo lối mòn, ta sẽ nói thế nào. Những cách nói thông thường như “phải động não đi chứ” hay “phải biết cách dùng đầu óc” không thể hiện được ý tôi muốn diễn đạt. Trong tiếng Anh có thành ngữ “think outside the box.” Lần đầu tiên nghe câu này tôi rất bị ấn tượng vì nó lập tức gợi lên trong đầu tôi hình ảnh một chiếc hộp nhỏ bé, ngột ngạt, giam hãm và cầm tù tư duy của con người.
Dĩ nhiên không phải chỉ có tôi mà một số đông dân Mỹ cũng có ấn tượng mạnh đối với cách diễn đạt này. Kết quả là sau một thời gian dài được quá nhiều người sử dụng, giờ đây thành ngữ trên đã mất tính độc đáo và trở thành một cụm từ khá sáo mòn. Hơn nữa, chẳng có mấy người Mỹ thật sự hiểu được thế nào gọi là “think outside the box.” [Trong tiếng Việt cũng có những hiện tượng tương tự. Chẳng hạn như khi nghe những câu như “Đầu tiên là tiền đâu” hay “Nhìn đời qua hai mảnh ve chai,” tôi đoán giờ chẳng có mấy người Việt
Như vậy, bằng cách gạt bỏ đường biên giới hình vuông ra khỏi óc, bạn đã nới rộng phạm vi tư duy và phạm vi tự do hành động của mình. Giải pháp cho bài toán này cũng như nhiều bài toán khác trong cuộc đời, nó phụ thuộc vào việc bạn có thể xoá bỏ những rào chắn trong tư duy hay không.
Đó là cách người ta giải thích nguồn gốc thành ngữ “think outside the box.” Câu thành ngữ này được giới tư vấn kinh doanh và quản trị ở Mỹ sử dụng nhiều. Có lẽ vì lĩnh vực quản trị-kinh doanh là lĩnh vực quan trọng mang lại hàng triệu đôla lợi nhuận nên những người sử dụng nó có cơ hội xuất hiện nhiều trên truyền hình hay được trích dẫn nhiều trên báo chí. Cụm từ “think outside the box” do đó có cơ hội truyền bá đến số đông dân chúng.
Còn một cách diễn đạt và một khái niệm khác không kém phần hấp dẫn mà rất ít người biết và sử dụng. Lý do có thể là vì nó có nguồn gốc xuất phát từ triết học, mà như tất cả chúng ta đều biết, triết học không phải là môn học có giá trị thực tế. Như những ai đã từng tìm đến các giảng đường triết học để chữa chứng bệnh mất ngủ kinh niên của mình đều biết, nó không giải quyết những vấn đề thiết thực như cơm-áo-gạo-tiền của cuộc sống mà chỉ bàn đến những vấn đề cao siêu ít người quan tâm. Chính vì vậy, cách diễn đạt thứ hai mà tôi dùng làm đầu đầu đề cho bài viết này không được đưa vào trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày và không được nhiều người biết đến.
~.~.~
Wittgenstein là một triết gia Áo sống vào nửa đầu thế kỷ 20. Ông có nhiều đóng góp quan trọng vào nền triết học đương thời, trong đó bao gồm cả đóng góp vào lĩnh vực triết học ngôn ngữ (philosophy of language). Ông được xem là một trong những triết gia xuất sắc của thế kỷ và được tạp chí Time đưa vào trong số 100 danh nhân thế giới thế kỷ 20.
Thú thật, tôi không đủ trình độ - mà cũng không có tham vọng – để thấu hiểu toàn bộ hệ thống ý tưởng của ông. Nhưng trong quá trình đọc sách triết, thỉng thoảng tôi cũng chống chọi được với cơn buồn ngủ và ráng vày vò đầu óc để tìm hiểu xem các nhà triết học đang muốn truyền bá điều gì đến những độc giả có số IQ thấp như tôi. Nhờ vậy, tôi học được một ý tưởng ngộ nghĩnh Wittgenstein dùng để giải thích vai trò của triết gia và bản chất của các vấn đề triết học phức tạp. Theo Wittgenstein, lý do tại sao các triết gia bao đời nay vẫn loay hoay chưa giải quyết được các bài toán triết học đã có từ thời cổ đại là vì những câu hỏi triết học mà họ nêu ra có thể nói là vô nghĩa. Theo ông, thông qua ngôn ngữ, các triết gia nêu lên những vấn đề to tát như vật chất (matter), ý thức (mind), tự do ý thức (free will), cái thiện, cái ác, v.v. mà không ý thức được rằng ngôn ngữ là một phần gắn chặt của cuộc sống và không thể tách rời ngôn ngữ ra khỏi những bối cảnh cụ thể của cuộc sống mà không làm mất đi ý nghĩa của ngôn ngữ. Khi dùng ngôn ngữ để nêu lên các vấn đề mang tính triết lý, các nhà triết học đã tách rời ngôn ngữ ra khỏi môi trường tự nhiên của nó và đưa nó vào một môi trường triết lý siêu hình, trong đó tất cả những đặc tính quen thuộc và cần thiết của ngôn ngữ biến mất.
Wittgenstein ví việc đưa ngôn ngữ vào trong một môi trường triết lý siêu hình cũng giống như việc đi trên vùng đất băng trơn không có sự ma sát (frictionless ice). Lý do cần thiết để tạo ra một môi trường như vậy là vì các nhà triết học cần tạo ra những điều kiện hoàn hảo để qua đó họ có thể áp dụng một ngôn ngữ hoàn hảo về logic và triết học để giải quyết tất cả những vấn đề triết học mà không phải chịu bất cứ ảnh hưởng “ma sát” nào của những hoạt động sinh sống hàng ngày của con người. Dĩ nhiên, chính vì không có sự hiện diện của những “ma sát với cuộc sống” mà ngôn ngữ triết học trở thành vô dụng và không giải quyết được bất kỳ vấn đề nào. Ông mô tả ngôn ngữ triết học như “những bánh xe không thể quay,” “ngôn ngữ đi nghỉ mát,” hoặc “một vật dụng chỉ dùng để trang trí” (“idle wheels,” “language that goes on holiday,” a mere “ornament”). Để giải quyết những vấn đề do ngôn ngữ triết học gây ra, theo ông, các triết gia cần rời bỏ vùng băng trơn không ma sát và quay lại vùng đất xù xì (rough ground) của ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày.
Nói cách khác, Wittgenstein muốn chứng minh cho thấy các triết gia đã sai lầm ngay từ ban đầu khi nêu lên các vấn đề phức tạp trong triết học bằng cách không sử dụng ngôn ngữ cuộc sống hàng ngày. Thay vì hoài công đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi triết học, theo Wittgenstein ta chỉ cần ý thức rằng chúng là hệ quả của việc sử dụng ngôn ngữ không có độ ma sát và gạt bỏ ngôn ngữ này ra khỏi lĩnh vực triết học. Điều thú vị trong giải pháp ông đưa ra là một khi đã vứt bỏ “ngôn ngữ đi nghỉ mát” thì tất cả những vấn đề triết học về sự sống-cái chết, thượng đế-con người, vật chất-ý thức, v.v. cũng tự nhiên biến mất. Ông viết: “the clarity we are aiming at is indeed complete clarity. But this simply means that the philosophical problems should completely disappear.”
Các nhà triết học loay hoay tìm cách giải quyết những câu hỏi triết học muôn thuở được ông ví như những con ruồi bay loanh quanh trong một cái chai và không tìm thấy đường ra. Cái chai ở đây chính là hệ thống khép kín của những khái niệm triết học, dùng chính nó làm hệ quy chiếu (self-referential system of thought). Wittgenstein tự giao cho mình trách nhiệm chỉ đường cho chú ruồi thoát khỏi cái chai (“shew the fly the way out of the fly-bottle”). Dĩ nhiên, cách đơn giản nhất để thoát khỏi cái chai là đập bể nó.
Để bạn có thể thấy rõ tầm quan trọng của bối cảnh đối với việc sử dụng ngôn ngữ và sự vô ích của việc dùng ngôn ngữ để giải quyết những vấn đề do ngôn ngữ tạo ra, tôi thử lấy một ví dụ đơn giản trong cuộc sống như sau. Hai chữ “đi bơi” trong tiếng Việt có lẽ ai cũng hiểu nhưng không phải ai cũng hiểu giống nhau vì ý nghĩa của nó phụ thuộc vào bối cảnh cuộc sống của người sử dụng. Một đứa trẻ sống ở thành phố sẽ hiểu đó là đi đến hồ bơi Kỳ Hòa hay một hồ bơi nào đó, vô phòng thay đồ, cởi đồ tây, mặc đồ bơi, đeo kiếng bơi vào (nếu có), đi cất đồ, đi tắm vòi nước trước khi bơi, và sau đó nhảy xuống hồ. Một đứa trẻ sống ở một vùng nông thôn cạnh một con sông sẽ hiểu “đi bơi” đơn giản là chiều chiều cởi trần đi ra sông, nhảy xuống sông tắm. Chấm hết. Đối với một đứa trẻ sống ở thành phố cũng như đứa trẻ sống ở nông thôn, cả hai đều hiểu “đi bơi” là gì mà không cần phải có người giải thích dài dòng. Nhưng nếu có một nhà triết học rảnh rỗi muốn đưa ra một định nghĩa hoàn hảo để giúp bất cứ ai cũng có thể hiểu được đi bơi là gì mà không cần phải đề cập đến những chi tiết dung tục, tầm thường của cuộc sống hàng ngày như cởi quần, cởi áo, hay cởi trần thì bạn có thể hình dung được sự rối rắm, phức tạp không cần thiết của những ngôn ngữ, khái niệm chung chung, trừu tượng mà ông/bà ta phải dùng để giải quyết câu hỏi nêu trên. Mà cũng chưa chắc đã giải quyết được vấn đề cho trọn vẹn. Thay câu hỏi “đi bơi là gì?” bằng câu hỏi “hạnh phúc là gì?” thì bạn có thể tưởng tượng được mức độ rối rắm, phức tạp sẽ gia tăng lên bao nhiêu lần.
~.~.~
Bối cảnh cụ thể của cuộc sống do đó đóng một vai trò quyết định trong việc hiểu và sử dụng đúng ngôn ngữ. Ví dụ như ta chỉ có thể hiểu đúng khái niệm “đi học” trong tiếng Việt nếu dùng nền văn hóa và bối cảnh cuộc sống Việt Nam làm hệ quy chiếu. Khi dịch khái niệm “đi học” sang hệ quy chiếu của Mỹ thành “go to school” để người Mỹ hiểu, thì hơn 50% ý nghĩa của nó đã bị thay đổi. Khi dịch khái niệm “hiếu thảo” sang tiếng Anh thành “filial piety,” theo tôi đoán nó đã mất đi 90% ý nghĩa gốc trong tiếng Việt và hơn 90% dân Mỹ chỉ có một khái niệm lờ mờ “filial piety” có ý nghĩa gì trong tiếng Anh và bao hàm những hành động, bổn phận gì của người con đối với cha mẹ. Sự khác biệt giữa hai hệ quy chiếu càng lớn thì khả năng để các thành viên hai bên có thể hiểu nhau càng nhỏ. Wittgenstein cho rằng “Nếu một con sư tử biết nói [tiếng Anh hay bất thứ tiếng nào khác], thì ta cũng không thể nào hiểu được ý nó muốn nói gì,” vì hệ quy chiếu của người và vật quá khác nhau.
Ngôn ngữ và văn hóa của một nước do đó cũng là một hệ thống tư duy khép kín dùng chính nó làm hệ quy chiếu. Chúng có vai trò không khác gì một cái chai giam hãm cách tư duy và phạm vi lựa chọn hành động của chúng ta. Những gì ta được phép và không được phép làm trong một nền văn hóa tạo thành một đường biên bao quanh tư duy của ta. Giống như ví dụ về quả trứng của Columbus, nếu như
Cách đây 2 năm, lúc đang viết luận văn thạc sĩ của mình về đề tài chủ nghĩa cá nhân ở Mỹ và Việt Nam, tôi mô tả tệ nạn hối lộ, tham nhũng như là một vấn đề về đạo đức. Ông thầy hướng dẫn nhận xét, không nên xem chúng như là một vấn đề thiếu sót về đạo đức và tìm cách giải quyết bằng cách cổ vũ rèn luyện, nâng cao đạo đức. Hối lộ và tham nhũng tồn tại ở mọi nước, trong mọi hệ thống chính trị. Điều quan trọng là phải thiết lập các cơ chế và thể chế thích hợp để giới hạn tệ nạn hối lộ và tham nhũng. Đó là lần đầu tiên tôi được biết ta có thể giải quyết những hành vi vô đạo đức như tham nhũng và ăn hối lộ không phải bằng cách đào tạo cho xã hội những công dân có đạo đức mà bằng cách thiết lập các cơ chế để ngăn ngừa và trừng phạt các cá nhân thực hiện hành vi vô đạo đức. Sau buổi nói chuyện hôm đó tôi có cảm giác như ông thầy đã nắm tóc, kéo đầu tôi ra khỏi cái chai “Văn hoá Khổng giáo Việt Nam” sang một cái chai “văn hoá Mỹ - Châu Âu” để tôi có dịp làm quen với một lối tư duy mới. [Nghĩ lại, thấy may mắn là mình đã không mím môi, mím lợi, cố bám tay, đạp chân vào thành chai để được rơi tọt trở lại môi trường đáy chai quen thuộc.] Ngược lại, tôi đoán ông thầy hướng dẫn của mình trong thời gian sống ở Hàn Quốc cũng đã từng bị người khác nắm tóc, kéo đầu lôi ra khỏi cái chai “Mỹ-châu Âu” để học hỏi những cái hay trong cái chai “văn hóa Khổng giáo Hàn Quốc.”
Dĩ nhiên, sau khi sống trong cái chai “Khổng giáo Việt Nam” hơn 30 năm và đã quá quen thuộc với môi trường trong đó, tôi không thể nào rời bỏ hẳn nó để chuyển sang sống trong một cái chai nào khác. Nhưng từ đó đến giờ tôi vẫn cố gắng đi qua đi lại giữa hai cái chai. Vẫn cố tìm tòi xem bên trong cái chai “văn hoá Mỹ - Châu Âu” có gì đẹp và hay, có gì đáng học hỏi để đem về áp dụng trong cái chai văn hóa Việt Nam. Như tôi đã có dịp trình bày, tôi không bác bỏ rèn luyện đạo đức. Xã hội và con người không thể tồn tại nếu không có đạo đức. Việt Nam có thể kết hợp cả hai đặc điểm rèn luyện đạo đức và thiết lập luật pháp nghiêm minh, chứ không nhất thiết chỉ chú trọng rèn luyện đạo đức mà bỏ qua việc phát triển hệ thống luật pháp như hiện nay, hoặc phụ thuộc quá nhiều vào bàn tay sắt của luật pháp mà sao lãng việc rèn luyện đạo đức con người như trong xã hội Mỹ. Một xã hội tốt đẹp đến mức hoàn hảo là xã hội tiếp thu và trộn lẫn những gì tinh túy nhất của phương đông và phương tây thành một tổng thể hợp nhất. Văn minh châu Âu không thể có được ngày hôm nay nếu không có sự đóng góp của các nền văn minh Trung Quốc, Hy Lạp, Hồi Giáo, Ấn Độ, văn minh người da đỏ Nam Mỹ, v.v. Văn minh nhân loại là như vậy. Nó kế thừa và vay mượn lẫn nhau, giao thoa với nhau. Tất cả chúng ta đều bơi trong cùng một đại dương. Những luồn chảy văn hóa khác nhau giúp cho biển văn hóa của nhân loại không bị ứ đọng và tù hãm. Nơi nào có những luồn văn hóa gặp gỡ và giao thoa, nơi đó có môi trường sống sinh tươi, đa dạng và phong phú. Ta cần học cách di chuyển giữa những chiếc chai!